Vài tháng nay, bà thường xuyên hụt hơi, thở dốc, nghỉ ngơi một lúc thì đỡ, nghĩ do tuổi lớn và sức khỏe giảm sút. Khi triệu chứng ngày càng nặng, bà đi khám tại bệnh viện tỉnh, được chẩn đoán hẹp van động mạch chủ, van hai lá rồi chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM.
ThS.BS.CKII Huỳnh Hoàng Khang, Trưởng khoa Ngoại tim mạch, Trung tâm Tim mạch Can thiệp, cho biết hai lá van của bệnh nhân hẹp khít kèm vôi hóa nặng. Hẹp van tim là tình trạng lỗ van bị thu hẹp, không mở đúng cách. Các lá van có thể dày lên, cứng lại hoặc dính nhau khiến van không thể mở hoàn toàn. Tim phải co bóp mạnh hơn để đẩy máu qua lỗ van hẹp, lâu dần dẫn đến phì đại, suy tim, rối loạn nhịp và có thể tử vong.
Do triệu chứng ban đầu chỉ là mệt, khó thở thoáng qua rồi tự hết, bà Nương không nghĩ mình mắc bệnh tim. Đến khi khó thở nhiều hơn, đi lại vài bước đã hụt hơi, tim đập dồn dập, bà mới đi khám. Lúc này, bệnh đã tiến triển, buồng nhĩ giãn lớn gây rung nhĩ. Huyết khối đã hình thành trong nhĩ trái, có nguy cơ trôi lên não gây đột quỵ hoặc thuyên tắc bất cứ vị trí nào.
Theo bác sĩ Khang, hẹp nhiều van kèm vôi hóa như bà Nương là trường hợp điển hình của bệnh van tim hậu thấp. Đây là tổn thương van tim do hậu quả lâu dài của bệnh thấp tim - một bệnh tự miễn xuất phát từ nhiễm liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A.
Bệnh thường khởi phát sau các đợt viêm họng, viêm nhiễm đường hầu họng kéo dài khoảng 2-3 tuần. Trong giai đoạn này, cơ thể tạo kháng thể chống lại vi khuẩn. Do cấu trúc một số thành phần ở van tim và cơ tim giống với cấu trúc của vi khuẩn, kháng thể "nhầm lẫn", quay sang tấn công chính van tim và cơ tim. Hậu quả là các lá van dày lên, dính lại với nhau. Về lâu dài, lắng đọng canxi làm lá van vôi hóa, cứng, giảm khả năng mở - đóng linh hoạt, dẫn đến hẹp, hở van tim.
Bác sĩ Khang khám cho bệnh nhân trước lúc xuất viện. Ảnh: Hạ Vũ
Êkip phẫu thuật cắt bỏ hai van tổn thương, thay bằng van sinh học và khâu bít tiểu nhĩ trái để giảm nguy cơ hình thành và trôi huyết khối, phòng ngừa đột quỵ. Sau mổ, van nhân tạo hoạt động tốt, nhịp tim bệnh nhân ổn định, tình trạng khó thở cải thiện rõ. Bệnh nhân hồi phục tốt và xuất viện sau 5 ngày.
Bệnh van tim hậu thấp thường bắt đầu từ tuổi thiếu niên với các biểu hiện như sốt, viêm họng, đau khớp. Trẻ em và thanh thiếu niên bị nhiễm liên cầu khuẩn nhưng không được điều trị kháng sinh đúng và đủ liều có nguy cơ cao phát triển bệnh thấp tim, sau đó để lại di chứng bệnh van tim. Sau khi hết nhiễm trùng, hết sốt, tổn thương tại tim vẫn âm thầm tiến triển. Nhiều bệnh nhân chỉ được phát hiện bệnh van tim khi đã trưởng thành, thậm chí trung niên, lúc triệu chứng đã rõ rệt.
Dấu hiệu điển hình nhất của bệnh van tim hậu thấp là khó thở tăng dần theo thời gian, đặc biệt khi làm việc nặng, leo cầu thang, vận động nhiều. Một số trường hợp kèm hồi hộp, tim đập nhanh, cảm giác choáng váng, phù chân... Trẻ bị van tim hậu thấp thường mau mệt, hạn chế vận động, có thể chậm tăng trưởng so với bạn cùng lứa.
Để phòng bệnh, bác sĩ khuyến cáo mỗi người nên giữ ấm cơ thể, giữ vệ sinh răng miệng - hầu họng, hạn chế nguy cơ nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Khi có triệu chứng viêm họng, sốt, đau họng, ho kéo dài, cần đi khám sớm, điều trị kháng sinh đúng phác đồ nếu do liên cầu khuẩn, phòng thấp đầy đủ. Bên cạnh đó, nên tăng cường vận động, ăn uống đầy đủ dinh dưỡng để nâng cao sức đề kháng; tiêm ngừa các vaccine phòng bệnh nhiễm trùng như cúm, viêm phổi, rubella...
Những người đã được chẩn đoán bệnh van tim hậu thấp cần duy trì lối sống khoa học để làm chậm tiến triển bệnh. Bệnh nhân nên ăn nhiều rau xanh, trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt, ưu tiên các loại thịt trắng như cá, thịt gà; hạn chế chất béo bão hòa, thức ăn nhanh, đồ chiên xào. Tập thể dục đều đặn, ngủ đủ giấc, tránh stress kéo dài. Khi có các triệu chứng như khó thở tăng, mệt nhiều hơn, phù chân, hồi hộp, đau ngực, cần tái khám sớm để được điều chỉnh điều trị hoặc can thiệp kịp thời.
* Tên bệnh nhân đã được thay đổi
| Độc giả gửi câu hỏi về bệnh tim mạch tại đây để bác sĩ giải đáp |














