Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân đã có những phân tích sâu sắc về nghệ thuật quân sự đỉnh cao giúp dân tộc ta nắm bắt thời cơ 'ngàn năm có một', giành độc lập. Những bài học ấy, theo ông, vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Hồng Quân trả lời phỏng vấn Báo Điện tử VTC News
Đánh nhanh, thắng gọn
- Thưa Thiếu tướng, nhiều nhà sử học gọi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là “nghệ thuật đánh nhanh thắng gọn ở cấp quốc gia”. Ông nhìn nhận thế nào về quan điểm này?
Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện lịch sử trọng đại, một bước ngoặt vĩ đại của dân tộc ta. Nhưng thắng lợi ấy không diễn ra trong một ngày, mà là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị công phu, kiên trì và đầy bản lĩnh, sáng tạo.
Ngay từ khi thành lập năm 1930, Đảng đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là phải dùng đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị. Việt Nam đấu tranh phù hợp trào lưu thời đại là vì quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Từ đó, Đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức cơ sở cách mạng, chuẩn bị căn cứ địa. Đồng thời, Đảng kiên trì tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng.
Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là tối thượng, đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích giai cấp. Đảng cũng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp mọi tầng lớp nhân dân. Chính nhờ sự chuẩn bị ấy, khi thời cơ lịch sử đến - Nhật đầu hàng Đồng minh - chúng ta đã kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước.
Đó là quyết định táo bạo, nhưng đầy sáng tạo, thể hiện bản lĩnh của Đảng cách mạng còn non trẻ và tầm nhìn thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu chần chừ, bỏ lỡ thời cơ, thắng lợi khó có thể đến.
- Vậy sự khác biệt căn bản giữa Cách mạng Tháng Tám và các cuộc khởi nghĩa trước đó như Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh… là gì?
Điểm khác biệt lớn nhất là sự chuẩn bị bài bản, có định hướng chiến lược. Các cuộc khởi nghĩa trước - Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Bắc Sơn… - đều giàu tinh thần yêu nước nhưng phần nhiều mang tính tự phát, thiếu tổ chức thống nhất, chưa có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị và vũ trang.

“Độc lập, tự chủ, quốc phòng toàn dân và khát vọng tự do - đó là những giá trị bất biến của nghệ thuật quân sự Việt Nam, còn nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau”GS.TS Nguyễn Hồng Quân
Đảng ta đã khắc phục hạn chế đó qua việc: Xác định mục tiêu giành chính quyền bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Xây dựng lực lượng ba thứ quân (chủ lực, địa phương, dân quân du kích). Thành lập các căn cứ địa cách mạng, đặc biệt là Việt Bắc.
Nhờ thế, Cách mạng Tháng Tám đã huy động được sức mạnh toàn dân, tạo sự phối hợp đồng bộ giữa lãnh đạo - chỉ huy - chuẩn bị lực lượng. Đây chính là nghệ thuật quân sự mang tính cách mạng mà các cuộc khởi nghĩa trước chưa làm được.
- Trong Tổng khởi nghĩa, lực lượng du kích và tự vệ chiến đấu giữ vai trò như thế nào?
Vai trò của lực lượng này là rất đặc biệt. Họ không chỉ là lực lượng vũ trang chiến đấu, mà còn là lực lượng chính trị nòng cốt. Các đội du kích, tự vệ chiến đấu vừa trực tiếp đánh địch, vừa tuyên truyền, vận động quần chúng, biến cuộc khởi nghĩa từ hành động của một số nhóm nhỏ thành phong trào toàn dân.
Chính vì thế, chỉ trong vòng 15 ngày - từ ngày lệnh Tổng khởi nghĩa ban ra - đất nước ta với chiều dài hơn 1.000 km đã đồng loạt giành chính quyền. Đó là điều kỳ diệu, và có được nhờ mạng lưới du kích, tự vệ rộng khắp.
- Xin ông phân tích ý nghĩa của việc thành lập Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12/1944) và các căn cứ địa cách mạng, nhất là Việt Bắc?
Đây là bước đi mang tính chiến lược. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam - chính là lực lượng nòng cốt để khởi nghĩa vũ trang. Còn các căn cứ địa cách mạng, như Cao Bằng, Bắc Sơn, Việt Bắc, không chỉ là nơi trú quân mà còn là trung tâm lãnh đạo, huấn luyện, hậu cần, tuyên truyền.
Khác với những cuộc nổi dậy tự phát, việc xây dựng căn cứ địa đã giúp khởi nghĩa có tổ chức, có chiều sâu, bảo đảm khả năng chiến đấu lâu dài. Việt Bắc sau này trở thành “thủ đô kháng chiến”, là căn cứ địa của toàn quốc trong suốt 9 năm chống Pháp.
- Nhìn lại thời điểm Tổng khởi nghĩa, có thể nói việc nắm bắt thời cơ là yếu tố quyết định, thưa ông?
Thời cơ năm 1945 là “ngàn năm có một”. Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, kẻ thù mất chỗ dựa, tình thế rối ren. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Cơ hội cho dân tộc ta chỉ tồn tại trong vòng một năm hoặc một năm rưỡi. Nếu bỏ lỡ, sẽ không bao giờ lấy lại được. Chính vì vậy, Đảng đã kịp thời ra Quân lệnh số 1, phát động toàn dân khởi nghĩa.
Nếu chậm trễ, khi quân Đồng minh vào Đông Dương, ta sẽ mất cơ hội giành chính quyền. Nắm bắt đúng thời cơ ấy chính là bản lĩnh và trí tuệ của Đảng.

Tuyên ngôn Độc lập: Những giá trị bất biến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Theo ông, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 có ý nghĩa thế nào về mặt quân sự - chính trị trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ?
Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa lịch sử và chiến lược to lớn. Thứ nhất, nó khẳng định tư cách pháp lý quốc tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhân dân Việt Nam tự mình lật đổ chế độ phong kiến, đánh bại ách thực dân, không phải “xin” độc lập từ ai cả.
Thứ hai, Tuyên ngôn tuyên bố xóa bỏ chế độ phong kiến và thực dân, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), để đặt Việt Nam ngang hàng với những giá trị nhân loại tiến bộ.
Thứ ba, đây là lời tuyên bố với toàn thế giới rằng: Việt Nam là một quốc gia độc lập, có quyền được tôn trọng, và quyết tâm bảo vệ quyền ấy bằng mọi giá.
Có thể nói, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, hàng chục vạn người dân hô vang “Độc lập! Tự do! Hạnh phúc!” không chỉ khai sinh một quốc gia mới, mà còn tạo dựng vị thế pháp lý và chính trị vững chắc cho Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
- Vậy theo Thiếu tướng, bài học lớn nhất về quân sự - chính trị từ Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập còn nguyên giá trị cho đến hôm nay là gì?
Bài học đó có thể khái quát ở mấy điểm: Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường: dân tộc ta chỉ có thể đi lên bằng sức mình. Phát huy sức mạnh toàn dân: khởi nghĩa, kháng chiến chỉ thành công khi biến thành phong trào toàn dân, toàn diện. Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, ngoại giao tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm thắng lợi. Và trên hết, là ý chí khát vọng độc lập, tự do - sức mạnh tinh thần đã đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành một quốc gia độc lập, tự do, sánh vai cùng bạn bè năm châu.
Những bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của một dân tộc biết nắm thời cơ, dám đứng lên, và kiên định khát vọng độc lập.
- Xin trân trọng cảm ơn Thiếu tướng.