Mới đây, Khoa Ngoại niệu - Ghép thận, Bệnh viện Nhân dân 115 (TPHCM) tiếp nhận nam sinh 16 tuổi nhập viện cấp cứu trong tình trạng đau dữ dội tinh hoàn phải. Cậu cho biết cơn đau xuất hiện đột ngột và kéo dài khoảng 4 giờ trước khi đến bệnh viện. Sau thăm khám và siêu âm, bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân bị xoắn tinh hoàn phải và quyết định phẫu thuật khẩn.
Khi phẫu thuật, bác sĩ ghi nhận tinh hoàn phải sưng tím, căng to và bị xoắn 1,5 vòng. Ê-kíp tiến hành tháo xoắn và chườm ấm cho người bệnh. Sau 30 phút, tinh hoàn bắt đầu tái tưới máu và hồng trở lại. Bệnh nhân tiếp tục được cố định tinh hoàn hai bên để phòng ngừa xoắn tái phát. Sau 2 ngày điều trị, kiểm tra lâm sàng và siêu âm cho thấy tinh hoàn được tưới máu tốt và bệnh nhân xuất viện.
Xoắn tinh hoàn (xoắn thừng tinh) xảy ra khi tinh hoàn xoay quanh trục, làm tắc nghẽn mạch máu nuôi, dẫn đến thiếu máu và nguy cơ hoại tử. Đây là một cấp cứu nam khoa cần được phát hiện sớm.
Bác sĩ chuyên khoa 2 Trần Thanh Phong cho biết khả năng cứu tinh hoàn giảm mạnh sau 6 giờ kể từ khi xuất hiện cơn đau đầu tiên. Vì vậy, chẩn đoán và can thiệp sớm là yếu tố quyết định. Bệnh thường gặp ở nam giới 16-25 tuổi nhưng cũng có thể xảy ra ở người lớn tuổi. Phẫu thuật là phương pháp điều trị tối ưu và duy nhất hiện nay.
Các dấu hiệu nhận biết gồm: đau đột ngột vùng bìu, đau bụng, buồn nôn, nôn, rối loạn tiểu tiện, đau lưng, bìu to dần và đổi màu đỏ thẫm hoặc bầm tím. Khi sờ vào tinh hoàn, người bệnh cảm thấy rất đau. Nếu tình trạng thiếu máu kéo dài có thể dẫn đến hoại tử, buộc phải cắt tinh hoàn để tránh hoại tử lan rộng và có thể ảnh hưởng đến tinh hoàn còn lại, đồng thời tác động đến chất lượng tinh trùng của người bệnh.
Theo nhiều nghiên cứu, 90% trường hợp được điều trị trong 4-6 giờ đầu gần như không cần cắt tinh hoàn. Tuy nhiên, nếu đến viện sau 24 giờ, 90% tinh hoàn bị tổn thương không hồi phục và phải cắt bỏ. Các chuyên gia khuyến cáo nam giới cần đến cơ sở y tế ngay khi xuất hiện triệu chứng nghi ngờ xoắn tinh hoàn để tránh biến chứng nặng nề, đặc biệt là nguy cơ mất tinh hoàn và ảnh hưởng khả năng sinh sản.












