Những người mê Tây du ký đều biết, nhân vật Đường Tăng (còn gọi là Đường Tam Tạng) được xây dựng từ một nhân vật có thật trong lịch sử, một vị cao tăng đời Đường ở Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thật về cuộc đời lẫn hành trình thỉnh kinh của vị pháp sư lừng danh này đều rất khác với tiểu thuyết hay phim ảnh, thậm chí trái ngược.
Đường Tăng không mồ côi cha
Trong tác phẩm Tây du ký , Đường Tăng mồ côi cha ngay từ trong bụng mẹ, do cha ông bị ám sát, còn mẹ bị ép làm vợ kẻ sát nhân.
Tuy nhiên, sử sách ghi lại vị pháp sư này từ nhỏ đã được thân phụ dạy dỗ cẩn thận và sớm bộc lộ tư chất thông minh vượt trội.
Đường Tăng họ Trần, tên tục là Trần Huy, sinh năm 602 (có tài liệu nói là năm 600) ) tại Lạc Châu, huyện Câu Thị, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Gia đình có truyền thống làm quan lại, nhưng đến đời cha của ông là Trần Huệ thì không bước chân vào quan trường mà dốc tâm vào Nho học.
Không xuất gia từ hồi ẵm ngửa
Trong Tây du ký , vì hoàn cảnh chồng bị sát hại, bản thân phải nhẫn nhịn làm vợ kẻ thủ ác chờ ngày mối oan của gia đình được giải, mẹ Đường Tăng phải bảo vệ con bằng cách đặt đứa bé mới sinh lên cái giỏ thả trôi sông, hy vọng con mình được người tốt nuôi dưỡng. Cơ duyên đưa chiếc giỏ dạt vào một ngôi chùa, và đứa bé sống đời tu hành ngay từ tuổi ấu thơ.
Sự thật, pháp sư Đường Huyền Trang sống cùng gia đình, đến năm 13 tuổi mới xuất gia làm chú tiểu, 21 tuổi chính thức trở thành tỳ kheo. Ông nhanh chóng nổi tiếng là nhân tài trẻ tuổi trong giới Phật học.
Đi thỉnh kinh trái lệnh vua
Tây du ký kể rằng, Phật tổ Như Lai muốn truyền chân kinh sang phương Đông để độ cho chúng sinh nơi đó, nên lệnh cho Quan Âm Bồ tát tìm người đi lấy kinh. Người được chọn là pháp sư Huyền Trang ở Đại Đường. Vua Đường nhận người đi lấy kinh là em kết nghĩa, coi ông như một ân nhân của đất nước, màn tiễn đưa cực kỳ long trọng và xúc động.
Nhưng trên thực tế, sang đất Phật thỉnh kinh là nguyện vọng tha thiết của cá nhân Đường Tăng. Hồi đó ở Trung Quốc, kinh điển còn thiếu, các vị trưởng lão giảng giải khác nhau, mâu thuẫn và tranh cãi rất nhiều. Vì thế nhà sư trẻ pháp danh Huyền Trang muốn đi Thiên Trúc để tự mình tìm hiểu, tiếp cận với những kinh sách gần với nguyên bản nhất.
Hình ảnh Đường Tăng trong phim "Tây du ký" 1986.
Mặc dù hoàng đế nhà Đường ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, ông vẫn lên đường vào năm 629. Khi thành công trở về, pháp sư Huyền Trang mới được vua Đường ủng hộ trong việc tổ chức dịch thuật kinh sách. Cuốn Đại Đường Tây Vực ký – tác phẩm nổi tiếng của ông, nguồn tài liệu vô song về địa lý, xã hội và tập quán của vùng Trung Á và Ấn Độ thế kỉ VII, thứ bảy, được viết theo “đặt hàng” của vua Đường.
Chỉ mất 1 năm để đến Thiên Trúc
Tây du ký kể rằng Đường Tăng và các đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng phải mất 14 năm cho hành trình từ Đại Đường đến Thiên Trúc, trải qua 81 kiếp nạn.
Sự thật, pháp sư Huyền Trang chỉ mất hơn một năm để đến đất Phật. Tuy nhiên, phải đến năm 645, tức 16 năm sau khi rời Đại Đường, ông mới về đến cố hương. Nguyên nhân là khi tới Thiên Trúc, nhà sư trẻ nhận thấy sự khác biệt giữa Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, nhiều nội dung, tư tưởng lớn của Phật giáo chưa từng được biết đến ở quê hương ông. Do đó, ông quyết định ở lại học tập, nghiên cứu. Ông đã học với những vị thầy danh tiếng nhất ở đây, tham gia các cuộc tranh luận với nhiều học giả và nổi tiếng về sự uyên bác cũng như việc luôn chiến thắng trong các cuộc tranh luận.
Trở về Trung Quốc, pháp sư Huyền Trang mang theo hơn 600 bộ kinh viết bằng tiếng Phạn và tổ chức dịch sang tiếng Hán, được đánh giá là một trong 4 dịch giả lớn nhất chuyên dịch kinh sách tiếng Phạn ra tiếng Hán. Ông cũng là người sáng lập Pháp Tướng tông, một tông phái của Phật giáo ở Trung Quốc.
Ngoài công lao “thỉnh kinh”, sự uyên bác xuất chúng và danh tiếng của pháp sư Huyền Trang có được tại Ấn Độ khiến ông trở thành một trong những tu sĩ được tôn kính nhất vùng Đông Á ở thế hệ của mình. Đồ đệ của ông đến từ khắp Trung Quốc và cả Triều Tiên, Nhật Bản. Danh hiệu “Tam Tạng” là do giới tăng sĩ dành tôn xưng ông - nhân vật hiếm hoi tinh thông cả 3 tạng kinh điển của Phật giáo: Kinh, Luật, Luận.