Sau vụ lừa đảo nổi tiếng là Enron và Tyco, những tiết lộ về việc gian lận kế toán của công ty truyền thông Mỹ đã khiến thị trường tài chính Mỹ rung chuyển.
Tuy nhiên, đó chỉ là một phần nhỏ trong câu chuyện đằng sau WorldCom. Câu chuyện thực sự của công ty này bắt đầu và kết thúc ở một thị trấn nhỏ thuộc Mississippi. Tại đây, trong hơn 1 thập kỷ, một giáo viên thể dục có tên Bernie Ebbers đã thành lập một công ty nhỏ và biến nó trở thành một đế chế viễn thông hàng trăm tỷ USD với đầy sự dối trá.
Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Mississippi tại Clinton vào năm 1967, Ebbers trở thành giáo viên khoa học tại một ngôi trường cấp 2. Năm 1947, qua một trang quảng cáo trên tờ báo địa phương, ông mua lại một nhà nghỉ ở Columbia và chuyển đến đó sống. Từ đó, ông bắt đầu kinh doanh nhà trọ và cung cấp dịch vụ đường dài cho khách hàng. Trong quá trình này, Ebbers phát hiện ra ông có thể cung cấp dịch vụ trên bằng cách mua sỉ dịch vụ của AT&T để bán lại.
Năm 1983, Ebbers và 3 doanh nhân khác cùng lên kế hoạch để thành lập một công ty có tên LDDS (Dịch vụ Điện thoại Đường dài Giá rẻ) với mục tiêu không ngừng mở rộng quy mô. Để thực hiện được điều đó, Ebbers sử dụng cổ phiếu thay tiền mặt để thâu tóm những công ty khác. Ở mỗi thương vụ như vậy, họ lại thu hút thêm được khách hàng và tăng doanh thu.
5 năm sau, LDDS chính thức niêm yết. Với tốc độ bành trướng nhanh chóng, công ty này đã mua lại hơn 35 doanh nghiệp khác chỉ trong nửa đầu thập niên 1990. Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực viễn thông, họ còn lấn sân sang mảng internet, data, thương mại điện tử và chính thức đổi tên thành WorldCom vào năm 1995 với vị trí CEO được Ebbers đảm nhiệm.
Cái tên WorldCom dường như nhằm mục đích thể hiện cho quy mô hoạt động đầy tham vọng của Ebbers, đưa họ trở thành một trong những công ty viễn thông lớn nhất nước Mỹ. Năm 1996, doanh nghiệp này thực hiện một loạt những thương vụ đình đám, đầy "hào phóng": chi 14 tỷ USD để mua lại MFS Communication, đàm phán sáp nhập với UUNet, mua một mạng cáp quang mới và thực hiện thỏa thuận 37 tỷ USD để mua MCI Communication. Nhờ đó, trong chưa đầy 1 thập kỷ, Worldcom đã thâu tóm hơn 60 doanh nghiệp và doanh thu hàng năm lên đến 32 tỷ USD.
Ở thời kỳ đỉnh cao, vốn hóa của WorldCom có lúc đã lên tới khoảng 180 tỷ USD và giá cổ phiếu đạt mốc 60 USD. Mùa xuân năm 2000, đế chế này đã có khoảng 88.000 nhân sự và 60.000 mile đường dây điện thoại trên khắp thế giới. Doanh thu khi đó cũng trên đà vượt mức 40 tỷ USD. Ebbers cũng là tỷ phú với khối tài sản 1,4 tỷ USD.
Dẫu vậy, đà tăng trưởng vượt trội của đế chế viễn thông đã gặp lực cản lớn khi thương vụ sáp nhập với công ty đối thủ Sprint với 129 tỷ USD thất bại. Tháng 7/2000, giới chức Mỹ đã đình chỉ thương vụ với Sprint với lo ngại về cạnh tranh và chống độc quyền. Cùng với đó, thị trường cũng xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh khác, họ giảm giá dịch vụ để thu hút khách hàng.
Tham vọng thâu tóm càng nhiều càng tốt của Ebbers vẫn không vì thế mà ngừng lại. Tháng 9/2020, công ty này lại chi 1,6 tỷ USD để mua Intermedia Communications. Giới quan sát nhận định WorldCom khi đó "hớ" nặng vì công ty trên vốn chỉ có giá trị khoảng 50 triệu USD.
Song, đằng sau các thương vụ thâu tóm "không ngớt tay" đó là những khoản nợ chồng chất. Khi công ty ngày càng lớn mạnh và khối tài sản của Ebbers cũng tăng lên, ông đã mù quáng đi vay để thúc đẩy những thỏa thuận mua lại. Ebbers bắt đầu đi vay từ WorldCom vào cuối những năm 1990, sử dụng số tiền đó để mua thêm cổ phiếu của công ty, sau đó cầm cố để thực hiện những thương vụ đầu tư riêng.
WorldCom bắt đầu đối mặt với áp lực vào năm 2000, khi cổ phiếu của hãng lao dốc trong bối cảnh bong bóng dot-com vỡ tung, khiến các công ty viễn thông và internet rung chuyển. Tháng 4/2002, Ebbers đã bị buộc phải rời khỏi vị trí CEO, một phần vì ông nợ WorldCom hơn 400 triệu USD, bao gồm cả khoản tiền họ cho ông vay để trả nợ margin được đảm bảo bằng cổ phiếu của công ty.
Cũng trong thời gian đó, WorldCom đang "ôm" khoản nợ 41 tỷ USD sau khi thực hiện những thương vụ thâu tóm đầy hào phóng. Các chủ nợ của công ty viễn thông này bao gồm những ngân hàng lớn nhất nước Mỹ, đó là JPMorgan Trust, Mellon Bank và CitiBank.
Tuy nhiên, đế chế viễn thông còn có những phát hiện "kinh hoàng" hơn thế. Đầu mùa hè năm 2002, một kiểm toán viên nội bộ tiến hành kiểm tra sổ sách theo chỉ đạo của CEO mới. Người này đã nhận thấy những điểm bất thường trong số liệu kế toán và quy mô của quá trình gian lận kéo dài từ năm 1999 đến tháng 5/2002 bắt đầu được lật tẩy.
Với những "chiêu trò" mờ ám trong hoạt động kế toán, công ty này đã che giấu tình trạng tài chính chính thức, ngụy tạo số liệu tăng trưởng và lợi nhuận để "thổi" giá cổ phiếu. Nhóm kiểm toán nội bộ đã phát hiện khoản lỗ 3,85 tỷ USD kể từ năm 2001 đến 2002, một phần chi phí hoạt động đã được "xào nấu" thành chi phí vốn.
Nhờ đó, lợi nhuận của WorldCom đã được bơm thổi, thay vì lỗ 1,2 tỷ USD, họ lãi 1,6 tỷ USD vào năm 2001 và 172 triệu USD vào quý I/2002. Năm 2001, công ty công bố hoạt động kinh doanh tạo ra 7,7 tỷ USD tiền mặt, nhưng trên thực tế là 4,6 tỷ USD. Công ty này thừa nhận đã gian lận sổ sách hơn 4 tỷ USD, nhưng sau đó được xác nhận là 11 tỷ USD.
Theo CFO Scott Sullivan - người sau đó đã bị SEC buộc tội gian lận, chi phí và số tiền đầu tư vào khoảng 1,06 tỷ USD năm 2001 và 797 triệu USD trong nửa đầu năm 2002 chỉ làm cho nguồn vốn của họ "có vẻ" dồi dào, còn trên thực tế lại gặp nhiều khó khăn.
Tháng 7/2002, sau khi vụ bê bối vỡ lở, cổ phiếu của WorldCom từ mức đỉnh là 63,5 USD đã rớt xuống chỉ còn 20 cent ở thời điểm công ty này nộp đơn xin phá sản, với giá trị tài sản được liệt kê lên tới hơn 107 tỷ USD. Khi đó, đà lao dốc kinh hoàng của cổ phiếu WorldCom đã gây ra cơn sốc với thị trường chứng khoán toàn thế giới.
Đầu tháng 7, khi Nasdaq thông báo WorldCom có khả năng bị loại khỏi chỉ số này, cổ phiếu của hãng ngay lập tức rơi xuống mức 6 cent. Chỉ trong 1 phiên ngày 1/7, 1,5 tỷ cổ phiếu WorldCom đã được giao dịch và phá kỷ lục về khối lượng đối với Nasdaq. Diễn biến thê thảm này cũng kéo theo sự sụt giảm dây chuyền đối với nhiều công ty khác trong ngành.
Theo đó, các cổ đông của hãng viễn thông này là những nạn nhân lớn nhất sau vụ bê bối gây chấn động. Từ sở hữu cổ phần của một công ty lớn mạnh nhất ngành họ "trắng tay" chỉ trong tích tắc.
Sau khi nộp đơn phá sản, các chủ nợ bao gồm Citigroup, JPMorgan và G.E. Capital nắm quyền sở hữu WorldCom và đổi tên công ty này thành MCI. Song, hơn 17.000 nhân sự của công ty đã mất việc.
Năm 2005, Ebbers bị tuyên án 25 năm tù giam với tội danh lừa đảo chứng khoán và gian lận số liệu kế toán. Ngoài ra, các cựu lãnh đạo khác như CFO Scott Sullivan, kiểm toán viên David Myers và giám đốc kế toán Buford Yates… cũng nhận cáo buộc hình sự. 1 năm sau đó, MCI chính thức được Verizon thâu tóm.
Sự sụp đổ của WorldCom thậm chí có quy mô còn lớn hơn cả vụ Enron trước đó. Vụ bê bối còn khiến nhiều chuyên gia tài chính nhận định đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ đã xuống cấp trầm trọng. Giới đầu tư cho rằng, các nhà môi giới chỉ hành động vì lợi ích cá nhân, trong khi sự gian dối của các lãnh đạo doanh nghiệp được dung túng. Sau vụ việc, Quốc hội Mỹ đã chính thức thông qua Đạo luật Sarbanes-Oxley về Quản trị Công ty.