Ngày 24-8, tại phiên tòa xét xử bị cáo Trần Văn Nam, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương; Trần Thanh Liêm, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương; Nguyễn Văn Minh, cựu Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Bình Dương TNHH MTV (Tổng Công ty 3-2) cùng 25 bị cáo liên quan vụ án "đất vàng" Bình Dương, đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) TP Hà Nội đã đối đáp lại đối với bị cáo, luật sư và các bên liên quan.
Đại diện VKSND thực hành quyền công tố tại phiên toà - Ảnh: Nam Anh
Theo đó, trước ý kiến sự hình thành, phát triển nguồn vốn của Tổng Công ty 3-2 không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; Tổng công ty này thuộc quyền sở hữu của Tỉnh ủy Bình Dương không phải là doanh nghiệp (DN) nhà nước, đại diện VKS cho rằng trong quá trình phát triển, một thời gian dài, từ năm 1992 đến năm 2003, Tổng Công ty 3-2 được xác định là DN Nhà nước, chịu sự quản lý, chỉ đạo mọi mặt của UBND Tỉnh. Trong các giai đoạn phát triển khác, Tổng Công ty 3-2 luôn chịu sự quản lý, chỉ đạo của cả UBND Tỉnh và Tỉnh ủy Bình Dương, trong đó Tỉnh ủy là chủ sở hữu.
Trong quá trình cổ phần hóa đối với Tổng Công ty 3-2 là quá trình áp dụng pháp luật trong cổ phần hóa đối với doanh nghiệp nhà nước; Ban chỉ đạo cổ phần hóa đối với Tổng Công ty 3-2 do UBND Tỉnh thành lập là cơ quan tham mưu, giúp UBND Tỉnh và UBND Tỉnh Bình Dương là cơ quan có thẩm quyền chỉ đạo, tổ chức thực hiện và quyết định cổ phần hóa đối với DN này. Điều này thể hiện tập trung vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của UBND tỉnh trên vai trò quản lý nhà nước và chủ sở hữu trong quản lý đối với Tổng Công ty 3-2.
Các bị cáo tại phiên toà - Ảnh: Nam Anh
Về ý kiến luật sư cho rằng không có căn cứ chứng minh bị cáo Nguyễn Văn Minh có vai trò chủ mưu, trực tiếp thực hiện tội phạm về hành vi Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí, đại diện VKS dẫn chứng nhiều luận cứ, tài liệu và cho rằng trong quá trình điều tra, có đầy đủ chứng cứ xác định bị cáo Minh và các bị cáo thuộc Tổng Công ty 3-2 không có quyền bán khu đất 43 ha nêu trên, song các bị cáo đã thông đồng với các bị cáo thuộc Công ty Âu Lạc vì động cơ vụ lợi, cố tình làm trái quy định của pháp luật và chủ trương của Chủ sở hữu. Việc thực hiện việc chuyển nhượng quyền sở hữu đất đai theo giá thỏa thuận trái quy định của pháp luật gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Diễn biến hành vi phạm tội thể hiện rõ vai trò chủ mưu xuyên suốt và trực tiếp thực hiện tội phạm của bị cáo Nguyễn Văn Minh.
Bên cạnh đó, trên cương vị người đứng đầu DN, để thực hiện hành vi không xác định giá trị quyền sử dụng đất khu đất 145 ha khi cổ phần hóa đối với Tổng Công ty 3-2 và góp vốn bằng quyền sử dụng đất khu đất 145 ha vào Công ty Tân Thành trái quy định của pháp luật, bị cáo Minh đã chủ trương, trực tiếp thực hiện và chỉ đạo thực hiện nhiều hành vi trái quy định của pháp luật, quy định của Điều lệ tổ chức và hoạt động của DN.
Đối với ý kiến bị cáo Trần Văn Nam khi ký công văn lấy mức giá đất của năm 2006 để áp cho năm 2012 thu tiền sử dụng đất đối với khu dịch vụ trong khu liên hợp của Tổng Công ty 3-2, tại thời điểm ký bị cáo tin vào đề xuất của cấp dưới và không nhận thức được làm như vậy là sai, đại diện VKS cho rằng điều này hoàn toàn không có căn cứ. Bởi vì, bị cáo Nam làm Phó Chủ tịch Tỉnh phụ trách lĩnh vực đất đai từ năm 2010, trong các năm phụ trách lĩnh vực này, chính bị cáo là người ký ban hành bảng giá đất hàng năm làm căn cứ để thu tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Bị cáo Nam hiểu biết pháp luật, có trình độ, năng lực về quản lý nhà nước, kinh qua nhiều vị trí công tác, được bầu, bổ nhiệm nhiều cương vị lãnh đạo, quản lý quan trọng và cụ thể thời gian 2012, bị cáo lãnh đạo, quản lý lĩnh vực đất đai thì không thể nói rằng bị cáo không am tường, hiểu biết, chỉ tin theo đề xuất của cấp dưới mà ký văn bản trái quy định của pháp luật.