Dinh dưỡng

Phát hiện ung thư đại tràng từ dấu hiệu táo bón

Tóm tắt:
  • Ông Công, 68 tuổi, được chẩn đoán ung thư đại tràng giai đoạn xâm lấn.
  • Triệu chứng ung thư đại tràng thường không rõ ràng, dễ nhầm với bệnh tiêu hóa thông thường.
  • Ông đã trải qua phẫu thuật cắt đoạn đại tràng và một phần bàng quang.
  • Kết quả giải phẫu bệnh cho thấy ung thư biểu mô tuyến biệt hóa vừa giai đoạn 2B.
  • Bác sĩ khuyến cáo cần khám sức khỏe định kỳ và duy trì lối sống lành mạnh để phát hiện sớm bệnh.

Ngày 26/4, BS.CKII Nguyễn Quốc Thái, Trưởng khoa Ngoại Tiêu hóa, Trung tâm Nội soi và Phẫu thuật Nội soi Tiêu hóa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, cho biết các dấu hiệu ung thư sớm của ông Công có thể xuất hiện từ nhiều tháng trước nhưng người bệnh không nhận ra. Triệu chứng ung thư đại tràng thường không đặc trưng ở giai đoạn sớm, dễ nhầm lẫn với các bệnh tiêu hóa thông thường nên nhiều người bỏ sót như ông Công. Bệnh thường được phát hiện khi khám sức khỏe định kỳ hoặc ở giai đoạn nặng.

Kết quả chụp CT 1975 lát cắt (chụp cắt lớp vi tính bụng) của ông Công cho thấy đại tràng sigma (một phần của ruột già, nằm gần trực tràng và hậu môn) có khối u to 5 cm xâm lấn bàng quang và vách chậu phải kèm các hạch trong mạc treo. Gần động mạch chủ bụng có nhiều túi thừa nhỏ dọc đại tràng lên, đại tràng ngang, bụng có ít dịch tự do.

Bác sĩ Thái chẩn đoán ông Công bị ung thư biểu mô tuyến xâm nhập, các tế bào ung thư đã ăn sâu qua khỏi lớp trong cùng của ruột, có khả năng lây lan đến các hạch bạch huyết và các vùng khác của cơ thể. Người bệnh cần được phẫu thuật để ngăn biến chứng tắc nghẽn ruột, thủng ruột, chảy máu hoặc di căn sang các cơ quan khác.

Chụp CT cho thấy khối u to (chỗ khoanh vàng) ở đại tràng. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh

Chụp CT cho thấy khối u to (chỗ khoanh vàng) ở đại tràng. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh

Ông Công được chỉ định phẫu thuật nội soi cắt đoạn đại tràng có khối u, cắt một phần bàng quang. Tùy vào kết quả giải phẫu bệnh, bác sĩ xem xét điều trị đa mô thức như hóa trị, xạ trị, thuốc điều trị trúng đích, điều trị giảm nhẹ...

Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ quan sát ghi nhận bụng người bệnh không chứa dịch, chưa có biểu hiện di căn phúc mạc và bề mặt gan. Êkíp cắt một phần thành bàng quang, kẹp cắt các mạch máu nuôi u. Tiếp đến, êkíp cắt đoạn ruột dài 21 cm có khối u và nạo 29 hạch làm giải phẫu bệnh, dùng máy khâu nối phục hồi lại lưu thông ruột. Hậu phẫu, ông dần hồi phục, xuất viện sau một tuần.

Kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến xâm nhập, biệt hóa vừa giai đoạn 2B, khối u đã xâm lấn qua thanh mạc vào mô mềm quanh bàng quang. 29 hạch chưa có dấu hiệu di căn, xâm nhập mạch hay xâm nhập quanh dây thần kinh. Người bệnh điều trị tiếp tại khoa Ung bướu.

Bác sĩ Quốc Thái (thứ 2 từ phải qua) thực hiện phẫu thuật nội soi cho ông Công. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh

Bác sĩ Quốc Thái (thứ hai từ phải qua) phẫu thuật nội soi cho ông Công. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh

Ung thư đại tràng là bệnh lý khá phổ biến. Nếu người bệnh được phát hiện sớm, điều trị đơn giản, hiệu quả cao. Trường hợp tổn thương dạng polyp được loại bỏ trong quá trình nội soi đại tràng. Bệnh ung thư không phải là polyp thường được chỉ định phẫu thuật cắt bỏ một phần đại tràng bị ung thư và nạo vét các hạch bạch huyết gần đó (hạch vùng). Khi tế bào ung thư tiến triển, điều trị phức tạp, có thể phải kết hợp với điều trị đa mô thức.

Hiện chưa xác định nguyên nhân gây ung thư đại tràng. Một số yếu tố nguy cơ như di truyền, các tổn thương tiền ung thư (bệnh viêm đại tràng chảy máu, bệnh Crohn, polyp đại tràng...), béo phì, ít vận động, tiểu đường, thường xuyên hút thuốc lá, trên 45 tuổi, lối sống không khoa học, làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Bác sĩ Thái khuyên mỗi người nên ăn uống lành mạnh, vận động khoa học, khám sức khỏe định kỳ ở cơ sở y tế uy tín, trang thiết bị hiện đại để có thể phát hiện bệnh (nếu có) sớm, điều trị kịp thời.

*Tên bệnh nhân đã được thay đổi

Độc giả đặt câu hỏi về bệnh tiêu hóa tại đây để bác sĩ giải đáp

Các tin khác

Ăn gì tốt cho mạch máu?

Ăn cá béo kết hợp củ dền, tỏi có thể giữ cho mạch máu khỏe mạnh, phòng ngừa bệnh mạch máu tiến triển dẫn đến đau tim, đột quỵ.