Chìa khóa cho một tâm trí khỏe mạnh
Tiến sĩ Trine Holt Edwin, một bác sĩ lão khoa với chức vị tiến sĩ đang làm việc tại Nhóm nghiên cứu chứng mất trí nhớ lâm sàng Oslo tại Bệnh viện Đại học Oslo, Na Uy, gần đây đã thực hiên một nghiên cứu xem xét mối liên hệ giữa sự suy giảm nhận thức cùng chứng mất trí nhớ ở cuộc sống sau này và nghề nghiệp ở tuổi trung niên.
Khi tiến hành khảo sát những người trong độ tuổi từ 30 đến 65, Holt Edwin phát hiện, những công việc thách thức về mặt nhận thức nhất sẽ giúp xây dựng khả năng dự trữ nhận thức.
Dự trữ nhận thức nhiều hơn hoặc tốt hơn sẽ làm tăng khả năng phục hồi và tính linh hoạt của não, đồng thời cho phép thực hiện nhận thức tốt hơn trong cuộc sống sau này, tùy theo mức độ thay đổi não bộ hoặc bệnh tật liên quan đến chức năng nhận thức ở não bộ .
Bà nói, giả thuyết dự trữ nhận thức giả định rằng "khả năng nhận thức có được thông qua giáo dục và các hoạt động kích thích nhận thức khác trong suốt cuộc đời có thể trì hoãn sự khởi phát của chứng suy giảm nhận thức nhẹ và chứng mất trí nhớ".
Nghiên cứu của Holt Edwin, trên hơn 7.000 người Na Uy trong 305 ngành nghề khác nhau phát hiện ra rằng những người đảm nhiệm những công việc ít thử thách về mặt tinh thần nhất - thường được gọi là lao động chân tay - có nguy cơ suy giảm nhận thức nhẹ sau tuổi 70 cao hơn 66% và có nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ cao hơn 31% so với những người ở vị trí đòi hỏi sự sáng tạo nhiều hơn.
Holt Edwin khẳng định: "Dữ liệu khảo sát cho thấy tầm quan trọng của công việc: sử dụng bộ não của bạn và học những điều mới khi bạn già đi sẽ củng cố khả năng dự trữ nhận thức của bạn. Nó thậm chí có thể chống lại một phần tác động của alen APOE4 - một gen được biết là có liên quan đến sự phát triển của bệnh Alzheimer."
Cụm từ "dự trữ nhận thức" được đặt ra bởi Giáo sư Yakov Stern, một nhà tâm lý học thần kinh và trưởng Khoa Khoa học thần kinh Nhận thức thuộc Khoa Thần kinh học tại Đại học Columbia ở bang New York, Hoa Kỳ.
Stern đã có 1 báo cáo khoa học về vấn đề những người có trình độ học vấn cao hơn ít có khả năng mắc bệnh Alzheimer từ những năm 1990. Khi ông trình bày nó tại Học viện Thần kinh học, bạn bè và đồng nghiệp đã chế nhạo ý tưởng này.
Ông nhớ lại: "Có vẻ rất xa vời khi một thứ gì đó như giáo dục có thể chống lại các rối loạn của bệnh Alzheimer ".
Tuy nhiên, Stern và nhóm của ông đã thực hiện những khảo sát và thí nghiệm trong suốt nhiều năm trên quy mô lớn, và phát hiện ra rằng những người có trình độ học vấn dưới 8 năm có nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ cao gấp đôi so với những người có trình độ học vấn cao hơn.
Họ cũng phát hiện ra rằng những người có "trình độ nghề nghiệp thấp" cũng có nguy cơ tương tự. Ý nghĩa của những phát hiện này, Stern kết luận, là kinh nghiệm giáo dục và nghề nghiệp đã mang lại một sự dự phòng chống lại sự biểu hiện của bệnh lý Alzheimer.
Kết quả của Holt Edwin ủng hộ giả thuyết này "bằng cách chỉ ra rằng khả năng nhận thức có được thông qua cả giáo dục và nghề nghiệp trong giai đoạn đầu đời và tuổi trung niên dường như mang lại khả năng phục hồi chống lại sự suy giảm nhận thức".
Phân loại các cá nhân theo mức độ phức tạp của nghề nghiệp so với mức độ định hướng công việc thường ngày của họ, các nhà khoa học nhận thấy những công việc có "quỹ đạo kích thích tinh thần nhất" là những công việc dường như mang lại sự bảo vệ tốt nhất.
Những công việc "tay chân" hơn, như người quét dọn, người đưa thư và công nhân làm đường, là một trong những công việc ít thách thức tinh thần nhất, hầu như không cần đến sự tham gia của chức năng học hỏi và khả năng sáng tạo ở não bộ.
Giải pháp
Nhà nghiên cứu Pamela Almeida-Meza của Đại học College London đã phát hiện ra rằng ngay cả những người không có được lợi thế về giáo dục hoặc việc làm cũng có thể bù đắp bằng cách tự học, đơn giản nhất là bằng cách đọc sách.
Cô đề cập đến nghiên cứu Đoàn hệ Sinh nở Quốc gia Anh năm 1946 - một nghiên cứu được sắp xếp theo tầng lớp xã hội và ban đầu bao gồm 5.362 người được chọn ngẫu nhiên từ tất cả các ca sinh ở Anh, Scotland và xứ Wales trong một tuần vào tháng 3 năm 1946 - làm bằng chứng cho điều này.
Cô nói, vào thời điểm đó, có rất ít phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn hoặc giữ các vị trí cấp cao tại nơi làm việc, nhưng nhiều người đã tự học, điều này cuối cùng có tác động tích cực đến sức khỏe não bộ.
Nếu chúng tôi ngoại suy kết quả của mình, Holt Edwin cho biết thêm: "Bạn có thể nói rằng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng không bao giờ là quá muộn hoặc lãng phí thời gian để bắt đầu học một điều gì đó mới ".
Cô nói: "Tất cả các hoạt động đòi hỏi nhận thức sau này trong cuộc sống đều góp phần củng cố dự trữ nhận thức của một người, ngay cả khi bạn không làm việc và không làm việc ở một vị trí đặc biệt nặng nhọc về não bộ."