50 tỉ USD vốn vàng nằm trong dân?
Những ngày cuối tháng 8, Nghị định 232/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012 đã chính thức mở "chiếc vòng kim cô" bó buộc thị trường vàng suốt 13 năm qua. Trong đó, 2 nội dung quan trọng nhất là xóa bỏ độc quyền vàng miếng và độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu…
Ông Huỳnh Trung Khánh, Phó chủ tịch Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam, ví von Nghị định 232 đã giúp ngành vàng thấy được "ánh sáng". Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số trở lên thì đòi hỏi tất các lĩnh vực ngành nghề cần được huy động để phục vụ cho mục tiêu này. Trong khi vốn vàng trong dân từ nhiều thập kỷ qua luôn được đánh giá rất lớn, vì vậy cần phải có giải pháp để "lôi ra khỏi tủ", phục vụ sự phát triển của đất nước.

Khơi thông nguồn vàng lớn trong dân để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế đất nước
ẢNH: NGỌC THẮNG
"Một thị trường vàng minh bạch sẽ giúp dòng vốn lưu thông chứ không nằm một chỗ. Con số 400 tấn hay 500 tấn vàng trong dân được đề cập hơn mười năm nay nhưng có thể còn lớn hơn rất nhiều vì người Việt Nam có thói quen tích trữ vàng từ xưa nên lượng vàng trong dân rất lớn", ông Khánh nói.
Điều ông Khánh nhận định hoàn toàn có cơ sở. Bởi ngược thời gian trở về những năm 2010, thị trường vàng đã thu hút dòng tiền khổng lồ đổ vào. Các ngân hàng thương mại như những "nhà buôn" khi được phép huy động và cho vay vàng trong dân, bán vàng trên tài khoản ra nước ngoài. Các ngân hàng cùng một số doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng, hoặc chuyển vàng nguyên liệu cho Công ty SJC gia công. Tuy nhiên, do thị trường tăng trưởng nóng, các giải pháp quản lý lại chưa kiểm soát được dẫn đến tình trạng lộn xộn.
Nghị định 24 năm 2012 ra đời như một bức tường lửa nghiêm ngặt ngăn chặn sự thao túng thị trường thông qua biện pháp độc quyền vàng miếng, độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu. Thêm vào đó, toàn bộ quan hệ huy động và cho vay vốn bằng vàng được chuyển hóa sang quan hệ mua - bán vàng, đẩy lùi tình trạng "vàng hóa" trong nền kinh tế. Cũng từ giai đoạn này, người dân mang vàng gửi cho ngân hàng sẽ phải trả phí thay vì nhận được lãi suất như trước đó. Vì thế, một lượng vàng lớn gửi tại ngân hàng lúc bấy giờ dần được rút khỏi hệ thống ngân hàng về "nằm trong tủ" người dân.
Các "nhà buôn lớn" cũng rút khỏi thị trường vàng. Trong suốt những năm qua, nhiều lần chủ đề khơi vốn vàng trong dân được đặt ra nhưng rồi đóng lại. Dù chưa có số liệu thống kê chính xác nhưng theo Công ty SJC công bố vào năm 2013 thì trong 3 năm 2008, 2010, 2011, mỗi năm công ty sản xuất 100 tấn vàng. Trong các năm từ 2009 - 2013, Công ty SJC đã dập vàng miếng cho các ngân hàng, công ty với tổng khối lượng hơn 886.230 lượng (gần 33,2 tấn); gia công vàng miếng thương hiệu khác sang SJC với khối lượng hơn 383.000 lượng (hơn 14,3 tấn), trong đó có đơn vị có khối lượng chuyển đổi lên tới 5 tấn. Trong năm 2013, số lượng vàng Ngân hàng Nhà nước bán ra thị trường khoảng 68,24 tấn thông qua 76 phiên đấu thầu. Hay đợt Ngân hàng Nhà nước thực hiện bán vàng can thiệp thị trường vào năm 2014 cũng lên gần 14 tấn.
Một con số mà ông Huỳnh Trung Khánh cho rằng có thể tham khảo là Công ty SJC đưa ra thị trường 20 triệu lượng vàng trước đó, số lượng vàng này tương đương khoảng 750 tấn.
"Một số năm, Việt Nam xuất khẩu vàng dưới dạng trang sức ra nước ngoài nên con số có thể hao hụt, xuống còn 500 tấn. Cách đây hơn 10 năm, số lượng vàng này tương đương từ 15 - 20 tỉ USD. Thế nhưng, với tốc độ tăng giá mạnh như vũ bão những năm gần đây, giá trị của khối lượng này đã lên khoảng 50 tỉ USD. Con số này chiếm một nửa dự trữ ngoại hối hiện nay nên đây là con số cần suy ngẫm nên huy động như thế nào để phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế", ông Khánh nói.
Khơi thông vốn vàng như thế nào?
PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.HCM, cho rằng: "Việc chấm dứt cơ chế Nhà nước độc quyền thương hiệu vàng miếng, mở rộng đối tượng sản xuất vàng miếng và nhập khẩu vàng nguyên liệu sẽ giúp nguồn cung vàng trên thị trường đa dạng hơn. Người dân sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn, thị trường cạnh tranh, minh bạch hơn, qua đó góp phần thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới cũng như giữa các thương hiệu vàng. Điều này cũng thể hiện rõ tinh thần Nghị quyết 68 năm 2025 về phát triển kinh tế tư nhân, chuyển từ siết sang mở để quản trị".

Cần xây dựng cơ chế, chính sách quản lý hợp lý để tận dụng nguồn lực vàng trong nước
ẢNH: NGỌC THẮNG
Ông Huân kỳ vọng việc xóa bỏ độc quyền vàng miếng, tháo gỡ nhập khẩu vàng nguyên liệu cho thị trường vàng sẽ giải quyết tình trạng đắt đỏ của vàng trong nước, "giải khát" cơn sốt vàng. "Việt Nam có lượng vàng lớn nằm bất động trong dân nhưng nguồn cung trên thị trường lúc nào cũng trong tình trạng khan hiếm. Điều này đến từ việc chưa có kênh huy động được nguồn lực này. Đối với vàng vật chất, có huy động vàng trong dân thông qua hình thức mã hóa hoặc phát hành chứng chỉ vàng. Người dân gửi vàng vào hệ thống sẽ nhận được lãi suất thấp nhưng an toàn, đồng thời Nhà nước có thể sử dụng nguồn lực này để đầu tư phát triển. Nhà nước cũng cần áp dụng các công cụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng", ông Huân đề xuất.
Đồng thời, việc xây dựng sàn giao dịch vàng liên thông với thế giới sẽ đáp ứng được nhu cầu trong nước và giảm áp lực nhập khẩu vàng vật chất. Sàn vàng sẽ góp phần giảm tình trạng đầu cơ vàng vật chất mà chuyển sang giao dịch tài chính. Trước mắt, có thể thử nghiệm xây dựng sàn vàng tại Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam. Khi đưa sàn vào hoạt động đồng nghĩa thị trường sẽ minh bạch về giá, nhà nước thu được thuế.
Theo ông Huỳnh Trung Khánh: Thị trường vàng Việt Nam có những điểm khá trái ngược so với các nước. Trên thế giới, 70% vàng được khai thác cho chế tác nữ trang, mức tiêu thụ mỗi tháng lên 3.000 tấn. Kế đó mới đến vàng đầu tư, chiếm khoảng 20%, 10% còn lại là sử dụng trong các ngành công nghiệp điện tử như điện thoại. Những năm gần đây, một vai trò khác của vàng nổi lên, đó là nhu cầu dự trữ đến từ các ngân hàng trung ương. Thống kê của Hội đồng vàng thế giới đưa ra một thông tin đáng chú ý là một số ngân hàng trung ương chuyển nắm giữ trái phiếu sang vàng nhằm tránh sự phụ thuộc vào đồng USD. Trong khi đó, thị trường Việt Nam thì tỷ lệ vàng đầu tư lên 70%, còn lại mới là trang sức. Vì vậy, cần có chính sách rõ ràng để khơi thông vốn vàng, đặc biệt phát triển ngành trang sức, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước như các ngành khác.
Phục hồi ngành trang sức
Là người có thâm niên hoạt động hơn 40 năm trên thị trường vàng, ông Huỳnh Trung Khánh nhớ lại cách đây hơn 10 năm sang thăm một xưởng chế tác nữ trang tại Malaysia. Ông khá bất ngờ là có hàng chục lao động người Việt đang làm việc tại đây.

"Doanh nghiệp sản xuất nữ trang này tận dụng tay nghề thợ kim hoàn Việt để làm hàng xuất sang thị trường Dubai (UAE), một thị trường vàng nữ trang lớn trên thế giới, bởi thợ kim hoàn Việt rất khéo tay. Do đó, nhiều công ty nước ngoài đầu tư, mở công ty sản xuất vàng tại Việt Nam là để tận dụng đội ngũ thợ tay nghề cao trong nước", ông Khánh giải thích.
Một câu chuyện khác cho thấy ngành kim hoàn trong nước hoàn toàn có thể cạnh tranh được với các thị trường thế giới, đó là tiền công người thợ kim hoàn tại Indonesia rẻ hơn Việt Nam, nhưng các công ty quốc tế vẫn chọn điểm đến là Việt Nam. Nguyên nhân chính là quá trình đào tạo thợ kim hoàn Việt nhanh hơn các nước, cũng như tay nghề thợ cao hơn. Do đó việc thúc đẩy ngành kim hoàn phát triển không những giải quyết công ăn việc làm trong xã hội mà còn thu về nguồn ngoại tệ cho đất nước. Các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia… xem ngành nữ trang vàng là mũi nhọn khi đem về nguồn ngoại tệ mỗi năm lên tới 9 - 10 tỉ USD. Phát triển ngành kim hoàn cũng là cách để hút lượng vàng trong dân ra phục vụ công cuộc phát triển của đất nước.
Ông Nguyễn Văn Dưng, Chủ tịch Hội mỹ nghệ kim hoàn TP.HCM, bày tỏ vui mừng khi Nghị định 232 "cởi trói" cho các công ty sản xuất - kinh doanh vàng bạc đá quý về nguồn nguyên liệu. Đây là vấn đề lớn nhất trong một thập kỷ qua của ngành kim hoàn Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất đóng cửa vì không có nguyên liệu, thị trường vàng trang sức cũng bị thu hẹp trong khi đã có thời xuất khẩu vàng trang sức của Việt Nam mang về hàng tỉ USD cho đất nước. Số liệu thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đá quý, kim loại quý và sản phẩm năm 2019 lên đến 2,1 tỉ USD (tăng 231,2% so với năm 2018), năm 2020 là 2,6 tỉ USD. Hàng xuất khẩu chủ yếu là đồ mỹ nghệ và các bộ phận của đồ mỹ nghệ bằng vàng, đã hoặc chưa mạ hoặc dát phủ kim loại quý, có hàm lượng vàng dưới 95%.
"Những năm qua, thị trường vàng trang sức đối mặt với những khó khăn khắc nghiệt chưa từng có của một "cơn bão kép" đến từ cả hai vấn đề là khan hiếm nguồn nguyên liệu và sức mua trang sức suy giảm, nên hoạt động xuất khẩu cũng lao dốc", ông Dưng nói.
Tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả thị trường vàng thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu "chuyển mạnh từ tư duy hành chính sang tư duy thị trường có kỷ cương, từ "siết để kiểm soát" sang "mở để quản trị"; nhất định phải quán triệt, xóa bỏ tư duy "không quản được thì cấm"; đồng thời phải đưa thị trường vàng vận động phù hợp với các nguyên tắc của thị trường, có sự quản lý của nhà nước; tránh can thiệp cứng nhắc, bó hẹp sự vận động và phát huy ưu điểm của thị trường, bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; bảo đảm sự minh bạch trên thị trường; cần xác định việc lưu trữ vàng của người dân như một hình thức tiết kiệm và đầu tư, là nhu cầu chính đáng, cần tôn trọng và tiếp cận xây dựng cơ chế, chính sách quản lý một cách phù hợp trên cơ sở quan điểm này.
Là người chứng kiến khoảnh khắc lịch sử khi tham gia vào hoạt động đưa 40 tấn vàng sang Liên Xô để lấy ngoại tệ về Việt Nam năm 1979, chuyên gia tài chính Nguyễn Duy Lộ cũng đồng tình phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường vàng trang sức, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất để tăng xuất khẩu. Quản lý vàng trang sức theo cơ chế công thương, xem đó là hàng hóa chứ không quản lý như vàng miếng. Trong bối cảnh phát triển kinh tế tư nhân hiện nay thì việc cởi trói cho ngành trang sức cũng sẽ góp phần thu hút ngoại tệ về.
"Thu hút vàng trong dân là nội dung rất quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Vàng trong dân tích lũy từ nhiều năm nay lên hàng trăm tấn. Đây là tài sản không chỉ trong nước mà các nước trên thế giới hiện nay cũng quan tâm, đặc biệt là các ngân hàng trung ương tăng dự trữ vàng cao. Để thu hút nguồn vàng này trong dân, cần có cơ chế, chính sách thu hút. Đó là cho mở tài khoản gửi vàng miếng có kỳ hạn cho người dân. Nhà nước muốn tăng dự trữ vàng thì bỏ tiền ra mua" ông Nguyễn Duy Lộ nhấn mạnh.