Chiều 23-3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết điều chỉnh giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Theo nghị quyết, về số giờ làm thêm trong 1 năm, trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm, trừ các trường hợp như: Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết.
Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 9, "chốt" tăng giờ làm thêm trong tháng, trong năm
Về số giờ làm thêm trong 1 tháng, trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Trước khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết này, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung đã giải trình, làm rõ thêm một số nội dung. Theo đó, việc nâng trần thời gian làm thêm trong tháng, trong năm nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, các khảo sát trong những ngày gần đây cho thấy đa số các doanh nghiệp, người sử dụng lao động, lao động đồng tình theo hướng đó do xuất phát từ nhu cầu thực tiễn hiện nay.
Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy do sức ép công việc, đơn hàng nhiều doanh nghiệp đã trực tiếp thỏa thuận với người lao động để tiến hành việc làm thêm. Chính vì việc này dẫn đến quyền lợi của người lao động đôi khi không được đảm bảo.
"Trong luật quy định rất rõ chính sách đối với giờ làm thêm, do vậy, khi chúng ta thực hiện vấn đề này công khai, minh bạch, quyền lợi của người lao động sẽ được bảo đảm" - Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh.
Cho ý kiến tại phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nhấn mạnh mục tiêu xuyên suốt của chúng ta là tăng lương, giảm giờ làm đối với người lao động. Theo ông Trần Quang Phương, dịch Covid-19 là cơ hội để chúng ta chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nhưng bây giờ lại tăng giờ làm lên thì việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ như thế nào. Phó Chủ tịch Quốc hội cũng nhắc đến việc Chính phủ cũng đặt ra nguyên tắc không đánh đổi sức khỏe, tính mạng của người lao động lấy tăng trưởng.
Về phía cơ quan thẩm tra, bà Nguyễn Thuý Anh, Chủ nhiệm Uỷ ban Xã hội trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý đã có 2 loại ý kiến về mức trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ là quá cao mà chưa cơ quan soạn thảo chưa đưa ra căn cứ thuyết phục, đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ. Đây cũng là ý kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.
Loại ý kiến thứ hai đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Đây cũng là ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Do còn hai loại ý kiến khác nhau, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Kết quả 13/18 ý kiến tán thành phương án 1; 5/18 ý kiến tán thành phương án 2.
Trên cơ sở kết quả biểu quyết, Thường trực Ủy ban Xã hội tiếp thu ý kiến của đa số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và quy định giờ làm thêm trong 1 tháng trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Quy định về giờ làm thêm trong 1 tháng tại Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-4. Quy định về giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực từ ngày 1-1-2022.