Sức khỏe

Bộ Y tế lý giải vì sao người Việt không còn ồ ạt ra nước ngoài điều trị

Chất lượng bệnh viện "tụt lùi" sẽ không có bệnh nhân

Tại hội nghị Tổng kết đánh giá 10 năm triển khai Chương trình hành động Quốc gia nâng cao năng lực quản lý chất lượng khám chữa bệnh giai đoạn đến năm 2025, diễn ra ngày 25/11, TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) đánh giá, hiệu quả của Chương trình đã góp phần thay đổi bộ mặt của ngành y tế.

Việc triển khai 83 Tiêu chí chất lượng bệnh viện đã đem lại những thay đổi lớn cho ngành y tế Việt Nam góp phần làm tăng tỷ lệ người bệnh hài lòng về chất lượng dịch vụ bệnh viện lên hơn 90%. 

Bộ Y tế lý giải vì sao người Việt không còn ồ ạt ra nước ngoài điều trị - 1

TS.BS Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Ảnh: L.H)

Đến nay, gần 99% bệnh viện đã thành lập Hội đồng quản lý chất lượng, 77% có nhân viên chuyên trách và trung bình mỗi đơn vị có khoảng 2-3 nhân sự. Tuy nhiên, chỉ khoảng 23% có Trưởng phòng quản lý chất lượng không kiêm nhiệm, cho thấy nhân lực vẫn còn thiếu tính chuyên sâu.

Việc triển khai các quy định an toàn người bệnh đạt tỷ lệ cao ở hầu hết các lĩnh vực, như xác định đúng người bệnh, an toàn thủ thuật, an toàn thuốc, kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng ngừa té ngã, truyền đạt thông tin giữa nhân viên y tế… đều có tỷ lệ thực hiện từ 90% trở lên.

Về hoạt động cải tiến chất lượng, 95% bệnh viện xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng hàng năm, hơn 87% thực hiện đo lường chỉ số chất lượng. Tuy vậy, chỉ 50% đơn vị công bố các chỉ số ra bên ngoài. Điều này cho thấy, tính minh bạch và văn hóa an toàn còn chưa đồng đều giữa các địa phương.

Sự chuyển biến có thể đơn giản nhất thấy được là hiện tượng người bệnh ra nước ngoài khám chữa bệnh đã đổi chiều. Hiện nay, uy tín chuyên môn, chất lượng và giá dịch vụ khám chữa bệnh đang dần thu hút người bệnh từ nước ngoài đến Việt Nam điều trị, từ lĩnh vực răng hàm mặt, can thiệp tim mạch sơ sinh…

Cùng quan điểm này, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đánh giá: "Cách đây 10 năm, mỗi năm có hàng chục ngàn người Việt Nam có điều kiện kinh tế lựa chọn ra nước ngoài để khám chữa bệnh. Không phải vì kỹ thuật của chúng ta yếu, mà vì họ chưa hoàn toàn tin vào chất lượng dịch vụ và môi trường chăm sóc.

10 năm sau, chính những người đó đang quay trở lại Việt Nam để sử dụng dịch vụ y tế. Nhiều người bệnh quốc tế cũng đã lựa chọn Việt Nam như một điểm đến tin cậy do chất lượng đảm bảo, nhanh chóng và chi phí hợp lý".

TS Đức cũng nhắn nhủ lãnh đạo các bệnh viện, không khi nào được lơ là với việc quản lý chất lượng bệnh viện, dù trong bất cứ bối cảnh nào, vì nếu chất lượng bệnh viện "tụt hạng", bệnh nhân chắc chắn sẽ không lựa chọn.

3 chuyển biến lớn của ngành y tế

Thứ trưởng Bộ Y tế ghi nhận trong 10 năm qua, hệ thống khám chữa bệnh Việt Nam đã bước vào một giai đoạn chuyển dịch mô hình quản trị chất lượng đúng chuẩn mực hiện đại, tiệm cận các xu hướng quốc tế và đạt được 3 chuyển biến lớn có tính nền tảng.

Bộ Y tế lý giải vì sao người Việt không còn ồ ạt ra nước ngoài điều trị - 2

Các bác sĩ Việt Nam thực hiện can thiệp thông tim bào thai cho bệnh nhân người Singapore (Ảnh: Bệnh viện Từ Dũ).

Thứ nhất, là sự hình thành đồng bộ hệ thống quản lý chất lượng từ trung ương đến cơ sở. 

Thứ hai là chuẩn hóa thực hành lâm sàng và xây dựng bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện theo cách tiếp cận hiện đại. Bộ Y tế đã ban hành Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện năm 2013 và phiên bản 2.0 vào năm 2016.

Đây là hệ quy chiếu đặc biệt quan trọng để toàn hệ thống chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang quản trị chất lượng dựa trên bằng chứng, dữ liệu và an toàn người bệnh. 

Thứ ba là sự phát triển của văn hóa an toàn người bệnh và các phương pháp cải tiến liên tục. Từ hoạt động báo cáo sự cố, kiểm thảo tử vong, hội đồng thuốc và điều trị cho tới việc khảo sát hài lòng người bệnh, các bệnh viện đã chuyển từ mô hình báo cáo cho đủ sang mô hình báo cáo để học hỏi, rút kinh nghiệm. Tỷ lệ sự cố nghiêm trọng giảm, nhiều biến cố lâm sàng được phát hiện sớm, nhiều quy trình được chuẩn hóa lại, mở ra một giai đoạn mới của quản trị rủi ro trong bệnh viện.

Cùng với ba trụ cột trên là bước tiến mang tính cách mạng của chuyển đổi số y tế. Một số bệnh viện đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong đọc phim, phân loại người bệnh, hỗ trợ quyết định lâm sàng, mở ra một kỷ nguyên mới của y tế chính xác và y học dựa trên dữ liệu.

Bộ Y tế lý giải vì sao người Việt không còn ồ ạt ra nước ngoài điều trị - 3

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn cho biết, nền y tế phát triển không chỉ "giữ chân" người Việt, mà còn thu hút nhiều bệnh nhân quốc tế đến Việt Nam (Ảnh: L.H).

Thứ trưởng khẳng định: "Chất lượng không bao giờ là kết quả của sự ngẫu nhiên. Chất lượng chính là kết quả của trí tuệ và lựa chọn chính sách đúng đắn. Nó còn là kết quả của văn hóa an toàn được gieo trồng, dữ liệu được đo lường chính xác và những người thầy thuốc tận tâm đặt người bệnh ở vị trí trung tâm nhất".

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng thẳng thắn chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại như tình trạng quá tải ở các bệnh viện lớn; thủ tục khám chữa bệnh dù đã cải thiện nhưng vẫn còn gây phiền hà; lạm dụng thuốc, xét nghiệm, kỹ thuật; chưa đồng đều về chất lượng giữa các cấp chuyên môn; nhân lực chất lượng cao còn thiếu; cơ chế tài chính chưa tạo động lực cho chất lượng.

Thứ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh, đây là thách thức chung của nhiều hệ thống y tế đang phát triển nhưng cũng là cơ hội để chúng ta bứt phá.

Mục tiêu từ nay đến năm 2035 là tiến tới xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam tiệm cận quốc tế, thúc đẩy chứng nhận độc lập, thúc đẩy cơ chế thanh toán gắn với chất lượng, mở rộng chuyển đổi số, nâng cao năng lực nhân lực và xây dựng văn hóa chất lượng bền vững ở mọi cơ sở khám chữa bệnh.

TS Đức cho biết, trong thời gian tới, công tác chất lượng bệnh viện sẽ tập trung vào 6 lĩnh vực trọng tâm: hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường an toàn người bệnh, quản lý chất lượng dựa trên dữ liệu, chuyển đổi số trong quản lý chất lượng bệnh viện, phát triển nguồn nhân lực quản lý chất lượng và nâng cao trải nghiệm của người bệnh.

Cục Quản lý Khám, chữa bệnh sẽ nghiên cứu, xây dựng Bộ Tiêu chuẩn chất lượng bệnh viện mới trên cơ sở kế thừa kết quả đã có, bảo đảm phù hợp đặc thù Việt Nam và hài hòa với thông lệ quốc tế; thiết kế theo các mức độ, có lộ trình triển khai rõ ràng để các bệnh viện chủ động thực hiện và nâng hạng chất lượng bền vững, tiệm cận chất lượng quốc tế.

Các tin khác