Ngày 3/6, bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, khoa Y học Cổ truyền, Đại học Y Dược TP HCM, cho biết từ xưa, vải là loại quả quý, chỉ có vua chúa quý tộc mới được ăn. Dương Quý Phi thời Đường Huyền Tông (Trung Quốc) quá yêu thích loại quả này nên đặt tên cho nó là "nụ cười thần thiếp". Trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn, quả vải được ca ngợi là "mã ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải như thủy tinh, như giáng tuyết".
Quả vải còn gọi lệ chi, là loại quả tròn nhỏ, vỏ sần, khi chín màu đỏ dâu, một hạt lớn màu nâu đen, thịt màu trắng, dày và mọng nước. Phần ăn được của quả vải là cùi trắng, ăn tươi rất ngọt. Khi sấy khô, cùi có vị rất ngọt và hơi chua. Quả vải có thể chế biến thành nước giải khát, kem, chè, nước rượu, thạch hoặc sấy khô.
Theo y học hiện đại, thịt quả vải có nhiều nước, glucose, protein, chất béo, vitamin C, cải thiện sức khỏe tổng thể. Thành phần chính của vải thiều là nước, carbohydrate, giữ cho cơ thể đủ nước và no trong mùa hè nóng bức. Ngoài ra chúng giàu chất xơ và ít calo, cải thiện tiêu hóa, hỗ trợ giảm cân. Các loại nước thanh mát được chế biến từ quả vải cũng giúp cơ thể giải nhiệt vào mùa nóng.
Vải rất giàu vitamin C, đáp ứng nhu cầu vitamin hàng ngày của cơ thể khi ăn với một lượng vừa phải. Vitamin C là chất chống oxy hóa mạnh giúp ngăn ngừa nhiều bệnh mạn tính và tăng cường khả năng miễn dịch, đẹp da, tạo độ bóng cho tóc. Ngoài ra, vải còn chứa nhiều hợp chất chống oxy bao gồm cả epicatechin và rutin, giúp cơ thể chống lại stress oxy hóa, các bệnh mạn tính, đục thủy tinh thể, tiểu đường, bệnh tim và ung thư. Chất chống oxy hóa và vitamin C trong quả vải có lợi cho da, loại bỏ các vết thâm, ngăn ngừa dấu hiệu lão hóa, tăng cường miễn dịch.
Trong Đông y, thịt quả vải vị ngọt, chua, tính bình hay ôn, tác dụng giải khát, chữa mụn nhọt, ăn nhiều tăng nhan sắc nếu mỗi ngày dùng 10-16 g. Tuy vậy vải cũng có tính nóng nếu ăn nhiều, dân gian gọi là "nóng trong người".
Người Quảng Đông Trung Quốc cho rằng "ăn một quả vải bằng giữ ba ngọn đuốc trong người" (nhất đạm lệ chi tam bả hỏa), muốn nói đến thuộc tính dương (nóng) của vải, ăn quá nhiều làm khô môi, có thể gây chảy máu cam ở một số người, cũng như gây mụn nhọt hay loét miệng. Do đó, ăn vải nên có liều lượng thích hợp, vừa đủ, không ăn quá nhiều cùng một lúc, dẫn đến sinh nhiệt, khô miệng, đau họng, buồn nôn.
Theo bác sĩ Vũ, người bình thường không ăn quá 5-10 quả một lần. Phụ nữ mang thai, trẻ em nên ăn 3-4 quả một lần. Phụ nữ mới sinh, đang cho con bú, chỉ nên ăn 100-200 g. Phụ nữ trước và trong kỳ hành kinh nên hạn chế ăn nhiều vải.
Người bệnh tiểu đường nên ăn ở mức độ vừa phải vì vải có hàm lượng đường cao.
Vải có thể gây ra phản ứng dị ứng ở một số người. Một số người ăn bị ngộ độc với biểu hiện nôn nao, nổi mề đay, đau bụng dữ dội, bởi loại nấm độc Candida tropicalis thường thấy ở núm quả vải chín quá, dập nát, úng thối. Vì vậy không nên ăn quá nhiều, nhất là khi thấy chất lượng quả biến đổi khác thường.
Người bệnh thủy đậu, có đờm hay bị cảm cũng không nên ăn vải bởi sẽ làm bệnh tình thêm nặng hơn.
Quả vải tươi bảo quản trong tủ lạnh ngăn mát 5-10 ngày, cũng có thể được đông lạnh. Vải thiều sấy khô có thể lưu trữ đến một năm ở nhiệt độ phòng, hoặc đóng hộp dùng lâu dài.
Bài thuốc dân gian từ vải
Thịt vải giã nát với ô mai làm thành cao đắp lên mụn nhọt, hoặc 5-7 quả vải lấy thịt vải giã nát với ít hồ nếp, dàn thành miếng cao dán lên nơi mụn nhọt (để hở miệng).
Quả vải để cả vỏ hạt, thêm ít hạt muối, đốt thành than, nghiền nhỏ, xát vào răng chữa đau răng.
Vải cả quả đốt thành than tán bột hòa với nước nóng uống, chữa nấc.