Thời sự

Việt Nam nợ nước ngoài 139 tỷ USD: Cao hay thấp so với nước khác?

Theo Bản tin nợ công của Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2012-2021, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng từ 58 tỷ USD lên 139 tỷ USD. Trong đó, nợ nước ngoài của chính phủ tăng từ 35 tỷ USD lên 47 tỷ USD, còn nợ nước ngoài của doanh nghiệp tăng từ 23 tỷ USD lên 93 tỷ USD.

Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng nợ của nước ta là khoảng 10,3%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP trung bình, vào khoảng 5,5%/năm.

 

Cả nợ chính phủ lẫn nợ doanh nghiệp đều tăng trưởng trong giai đoạn từ 2012 đến 2021. Tuy nhiên, nợ doanh nghiệp đi lên với tốc độ nhanh hơn nhiều, khiến tỷ trọng nợ chính phủ trong cơ cấu nợ nước ngoài của Việt Nam giảm từ 60% vào năm 2012 xuống chỉ còn 33% vào năm 2021. 

Đi kèm với nợ luôn là nghĩa vụ trả nợ. Nghĩa vụ trả nợ cao hay thấp phụ thuộc vào lãi suất, thời hạn và các điều khoản cho vay. Vào năm 2021, Việt Nam phải trả khoảng 130 tỷ USD nợ nước ngoài. Trong đó, chính phủ phải trả 2,5 tỷ USD, còn doanh nghiệp phải trả hơn 127 tỷ USD. Lãi và phí của các khoản nợ nước ngoài trong năm 2021 là gần 2 tỷ USD.

Việt Nam đang nợ những ai?

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Nhật Bản là quốc gia cho Việt Nam vay nhiều nhất, đạt 14,6 tỷ USD vào năm 2021. World Bank là tổ chức cho Việt Nam vay nhiều nhất, kế đến là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).

Ngoài ra, thông qua kênh trái phiếu, Việt Nam huy động khoảng 2,1 tỷ USD từ nước ngoài. Khoảng 84 tỷ USD nợ của nước ta đến từ những người cho vay khác (quốc gia, tổ chức, cá nhân không được liệt kê trong số liệu của World Bank).

 

Tính ổn định của nợ nước ngoài

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ không phải lúc nào cũng là điều xấu. Thông qua các khoản vay từ nước ngoài, một quốc gia có thể nhanh chóng tài trợ cho các dự án phát triển. Tất nhiên, khoản nợ này cũng có thể tăng nhanh, đặc biệt trong thời kỳ đa khủng hoảng như hiện nay. 

Đại dịch COVID, việc các ngân hàng trung ương nâng lãi suất để đối phó với lạm phát, khủng hoảng năng lượng và lương thực buộc nhiều quốc gia phải mạnh tay đi vay để trang trải chi phí, và đối mặt với nghĩa vụ trả nợ ngày một nặng nề hơn. 

Nợ nước ngoài của Trung Quốc tăng gấp 18 lần trong 21 năm, còn Việt Nam tăng gấp gần 10 lần.

Con số tuyệt đối về nợ chỉ chỉ là một trong nhiều yếu tố quyết định khả năng trả nợ của một quốc gia. Theo IMF, tình hình nền kinh tế, thu nhập của chính phủ, loại nợ, lãi suất, bên cho vay, tỷ giá hối đoái, ... đều là những yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững của khoản vay.

Tổng nợ nước ngoài/tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có thể là một chỉ số để đánh giá được khả năng chi trả nợ của một nền kinh tế. Vào năm 2021, tổng nợ/GDP của Việt Nam là 38,4%, ở mức trung bình trong khu vực. 

Các nền kinh tế có tỷ trọng khu vực tài chính cao thường nợ nước ngoài nhiều. Tuy nhiên, mức nợ này hoàn toàn bền vững. Myanmar có tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP rất thấp, nhưng vẫn bị World Bank đánh giá có nguy cơ khủng hoảng, do nợ nước ngoài/xuất khẩu lên tới 106%.

Theo đánh giá của IMF vào tháng 1/2022, nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức 36,4% GDP (thấp hơn so với số liệu cuối năm 2021 theo báo cáo từ Bộ Tài chính). IMF dự báo nợ nước ngoài sẽ ổn định về mức 33% GDP trong trung hạn. Tỷ lệ nợ nước ngoài trên xuất khẩu của nước ta là 40%, dưới ngưỡng 50% và nằm trong vùng kiểm soát được.

World Bank cho biết, tại khu vực Đông Nam Á, Lào, Myanmar, Campuchia đang có nguy cơ rơi vào khủng hoảng nợ nước ngoài. Trong đó, Lào đang có nguy cơ khủng hoảng nợ rất cao. Những quốc gia trên thường là có tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP và (hoặc) tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu vượt giới hạn bền vững.

Tuy vậy, thước đo nợ nước ngoài/GDP cũng có nhiều hạn chế. Ví dụ, với Luxembourg, một quốc gia nhỏ tại châu Âu, có tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP lên tới 4.874% (nợ gấp 487 lần quy mô nền kinh tế). Tuy nhiên nợ nước ngoài của Luxembourg chủ yếu đến từ các tập đoàn tài chính lựa chọn quốc gia này bởi mức thuế suất thấp.

Và rõ ràng, những khoản nợ này vẫn bền vững, bởi chúng được đảm bảo bằng tài sản tương ứng. Đa số các quốc gia có nền kinh tế, tài chính phát triển đều có tổng nợ nước ngoài/GDP lớn hơn 100%. Tỷ lệ này tại Liên minh châu Âu (EU) là 126%, tại Mỹ là 100,2%

Tuy nhiên, với những nền kinh tế kém phát triển, chẳng hạn như Sudan, thì mức nợ nước ngoài tương đương 105% GDP là hoàn toàn không bền vững. 

Cùng mắc nợ nước ngoài lớn, nhưng tình hình tài chính của Canada hay Mỹ, Nhật Bản tốt hơn rất nhiều so với Sudan.

Một số nước, chẳng hạn như Venezuela hay Iran, có mức nợ nước ngoài/GDP rất thấp bởi cả hai đều đang bị cấm vận nặng nề và không thể đi vay nước ngoài.

Ai là chủ nợ, ai là con nợ?

Một quốc gia có thể vừa đi vay, cũng như vừa là chủ nợ. Vị thế đầu tư quốc tế ròng (NIIP) có thể cho chúng ta cái nhìn tổng quát hơn về tình hình tài chính và khả năng trả nợ của quốc gia.

NIIP được tính bằng cách lấy tài sản ở nước ngoài của một quốc gia trừ đi tổng nợ nước ngoài của nước đó. Nếu NIIP dương, quốc gia này là nước cho vay, và ngược lại, nếu NIIP âm, quốc gia này là nước đi vay.

Các nhà đầu tư sử dụng số liệu NIIP để đo lường mức độ tín nhiệm của một quốc gia và doanh nghiệp của quốc gia đó. Các điều khoản thương mại sẽ được quy định bởi các quốc gia cho vay và các quốc gia đi vay sẽ là bên phải thực hiện các nghĩa vụ nợ đã quy định. 

Hy Lạp, Ireland và Tây Ban Nha đều đã trải qua khủng hoảng nợ, hoặc đang có nguy cơ. Dữ liệu của IMF không có Việt Nam. 

Tại châu Á, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia cho vay lớn nhất. Tại châu Âu, người cho vay lớn nhất là Đức, Na Uy và Thụy Sỹ. Thông thường, các quốc gia cho vay có tình hình tài chính ổn định, còn những nước đi vay quá mức có thể đã, hoặc sắp trải qua khủng hoảng nợ. 

Chỉ số này cũng có những ngoại lệ, chẳng hạn như Mỹ. Mặc dù là nền kinh tế lớn nhất thế giới, Mỹ cũng là con nợ số một. Tính đến tháng 9/2022, NIIP của Mỹ đã âm gần 17.000 tỷ USD. Tuy nhiên, vị thế của Mỹ và đồng USD trong nền kinh tế thế giới cho phép quốc gia này chịu mức thâm hụt khổng lồ này.

Cùng chuyên mục

Đọc thêm