Chứng khoán

Vì đâu dòng tiền đang xa rời nhóm vốn hoá lớn?

Trong những tuần vừa qua thị trường chứng khoán đã có sự phục hồi tích cực với thanh khoản gia tăng hơn so với giai đoạn trước. Tại Mỹ thì Fed đã chính thức tạm dừng tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp. Trong khi đó lạm phát cũng đang dần hạ nhiệt ở các quốc gia, còn tại Việt Nam Ngân hàng Nhà nước đã đi trước và giảm lãi suất điều hành, tính đến nay đã có 4 lần hạ lãi suất liên tiếp.

Như vậy, câu hỏi được quan tâm lúc này là giai đoạn tăng lãi suất ở các quốc gia có đang thực sự chấm dứt và thị trường tài chính chứng khoán sẽ bước vào một giai đoạn mới hay không, cũng như các nhà đầu tư nên làm gì?

Trao đổi trong Talk show Phố Tài Chính (The Finance Street Talk Show, ông Trần Thăng Long - Giám đốc Phân tích Công ty Cổ phần Chứng khoán BIDV (BSC) đã có những chia sẻ về xu hướng lãi suất cũng như các cơ hội trên thị trường chứng khoán.

Ông Trần Thăng Long - Giám đốc Phân tích Công ty Cổ phần Chứng khoán BIDV (BSC). (Ảnh chụp màn hình).

MC Mùi Khánh Ly: Fed đã chính thức tạm dừng tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp, vậy theo ông có khả năng Fed sẽ giảm lãi suất hay chưa?

Ông Trần Thăng Long - Giám đốc Phân tích BSC: Tháng 6 vừa qua Fed mới có trường hợp đầu tiên không tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp. Điều này cho thấy đỉnh của lãi suất đối với chính sách của Fed đã rất gần rồi và theo như biểu đồ Dot Plot công bố sau buổi họp thì đa số các thành viên cho rằng có thể sẽ có từ 1 – 2 lần tăng lãi suất nữa trong năm nay. Như vậy mặt bằng 5,25% - 5,75% là vùng lãi suất theo tôi đã tiệm cận lãi suất đỉnh rồi.

Theo dõi những chỉ số lạm phát chung toàn cầu, chúng tôi thấy rằng cuối năm ngoái bắt đầu suy giảm khá tốt và dự kiến cuối năm nay thì mức lạm phát chung của toàn cầu khoảng 5,3%. Đây là một mức xấp xỉ với mức lãi suất điều hành của Fed hiện tại và sang đến năm 2024 thì kỳ vọng lãi suất sẽ về mức 4%. Điều này cho thấy dư địa của các chính sách lãi suất của các Ngân hàng Trung ương, chính sách lãi suất đã bắt đầu tạo đỉnh và chờ những dấu hiệu tiếp theo để có những nhịp điều chỉnh đi xuống.

Trong bối cảnh đó nhiều ý kiến cho rằng các nền kinh tế trên thế giới thay vì lo lắng về lạm phát và lãi suất thì cần tính đến khả năng xảy ra suy thoái kinh tế toàn cầu. Ông nghĩ sao về điều này?

Từ khóa suy thoái không phải chỉ năm nay mà đã xuất hiện từ năm ngoái và chúng ta đã nghe thấy rất nhiều. Hình dung đơn giản thì “suy thoái” là thuật ngữ chỉ một khoảng thời gian tăng trưởng chậm hoặc suy giảm tăng trưởng của nền kinh tế. Suy thoái không phải quá đáng sợ vì nó cũng là một phần của chu kỳ kinh tế. Theo định nghĩa thì khi tăng trưởng âm liên tiếp 2 quý hoặc tăng trưởng chậm lại so với mức trung bình trong khoảng 2 quý thì phần nào đó nền kinh tế đã đi vào khu vực suy thoái nhẹ.

Ở châu Âu, Anh, Đức đã ở pha suy thoái và các nền kinh tế lớn như Mỹ họ vẫn đang ở giai đoạn Late Cycle, chu kỳ tăng trưởng kinh tế chậm cuối cùng trước khi chuyển sang giai đoạn có suy thoái hay không. Trung Quốc – một trong những nền kinh tế lớn nhất đã vượt qua suy thoái và họ đang bước vào một chu kỳ phục hồi mới. Như vậy các quốc gia dù lớn hay nhỏ thì sẽ không đi theo một chu kỳ giống hệt nhau, nhưng cơ bản suy thoái đã diễn ra ở một số quốc gia, trong khi cũng có một số quốc gia đã có dấu hiệu phục hồi.

Tại Việt Nam Ngân hàng Nhà nước đã có phản ứng đi trước, hạ lãi suất hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp. Sau những diễn biến mới từ các nền kinh tế thì ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn dư địa để giảm tiếp lãi suất nữa hay không?

Hiện tại chúng ta đang giảm về mức khoảng 4,5% và chúng ta vẫn còn dư địa cho đợt giảm tiếp theo, nhưng tôi nghĩ rằng đợt giảm tiếp theo sẽ cần nhiều thời gian hơn để những người làm chính sách ước tính độ ảnh hưởng của các chính sách đó vào tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam như thế nào, từ đó đưa ra những quyết định phù hợp.

Thực tế thì cả thị trường chứng khoán thế giới và Việt Nam cũng đã có những phiên phục hồi tích cực sau những diễn biến tốt hơn từ các nền kinh tế và chính sách hỗ trợ. Vậy theo ông đà phục hồi này sẽ tiếp diễn trong bao lâu?

Trong năm 2022, Việt Nam gần như là thị trường giảm mạnh nhất trong số các chỉ số được theo dõi chung, khoảng 33%. Mức độ phục hồi từ đầu năm cho đến thời điểm này khoảng 10% là mức phục hồi bình thường bởi các quốc gia châu Âu đã đi vào thời kỳ suy thoái và thị trường chứng khoán của họ tăng trưởng không chỉ 10% mà trung bình khoảng 13%.

Cá biệt một số quốc gia như Đức tăng trưởng khoảng hơn 20% và bên cạnh đó chứng khoán Nhật Bản cũng tăng trưởng 27%, Hoa Kỳ khoảng 20%.

Việt Nam chúng ta có tăng trưởng khá tốt từ đầu năm đến nay, mức tăng điểm thị trường chứng khoán của chúng ta so với các thị trường khác chưa phải mạnh mẽ nên từ giờ cho đến cuối năm và thậm chí là năm sau chúng ta vẫn còn những kỳ vọng nhất định cho sự tăng điểm của thị trường, dựa trên cơ sở các chính sách về mặt tiền tệ, tài khóa đều đang hỗ trợ cho tăng trưởng nhiều hơn. Thứ hai các nhà đầu tư cũng đã dần dần tự tin vào việc thị trường trở lại xu hướng tăng.

Nếu đi vào sâu hơn thì chúng ta đều thấy trong thời gian vừa qua, nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn như ngân hàng giao dịch không sôi động bằng nhóm vốn hóa vừa và nhỏ. Liệu thời gian tới nhóm vốn hóa lớn có bứt phá hơn không?

Từ đầu năm đến nay, nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ tăng trưởng xấp xỉ 20%, mức độ tăng trưởng gần như gấp đôi các nhóm còn lại. Điều này có thể lý giải bởi một số nguyên nhân, thứ nhất những cổ phiếu vừa và nhỏ sau một giai đoạn họ giảm rất sâu thì mức độ tăng bật trở lại sẽ mạnh mẽ hơn. Thứ hai từ đầu năm đến nay chúng ta theo dõi nhà đầu tư nước ngoài sau giai đoạn mua ròng, 2 tháng gần đây họ bán ròng là chính. Một phần đến từ chênh lệch lãi suất khi lãi suất Hoa Kỳ tăng nhanh thì lãi suất điều hành ở Việt Nam lại trong xu hướng đi xuống. Thường các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ những cổ phiếu lớn trên thị trường.

Thị trường Việt Nam có cơ cấu nhóm ngành khá rõ, đặc biệt trong số các ngành thì quy mô của ngành ngân hàng so với VN-Index là chiếm tỷ trọng lớn nhất và ảnh hưởng nhiều nhất. Suốt khoảng thời gian vừa qua, những rủi ro của nhóm ngân hàng gia tăng do lãi suất gia tăng rất mạnh vào cuối năm cùng với rủi ro về trái phiếu. Những kỳ vọng đó cũng đã phản ánh vào giá của nhóm ngân hàng trên thị trường cổ phiếu.

Chuyển sang giai đoạn hiện nay, từ kết quả kinh doanh của các ngân hàng, nhiều nhà đầu tư sẽ nhận ra rằng rất nhiều nhà băng vẫn tăng trưởng khá tốt về mặt mô hình kinh doanh. Đồng thời những rủi ro như nợ xấu hay các vấn đề liên quan đến trái phiếu vẫn nằm trong tầm kiểm soát.

Điều quan trọng nhất, mức định giá của nhóm ngân hàng cũng về ở mức khá hợp lý cho việc đầu tư dài hạn. Do đó, tôi cho rằng cơ hội chung đối với các nhóm cổ phiếu lớn vẫn có, đặc biệt là từ nửa sau của năm 2023.

Cùng chuyên mục

Đọc thêm