Thời sự

Thêm giải pháp tài khóa hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội

Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành rất cần thiết và kịp thời, góp phần ổn định giá xăng dầu trong nước. Đồng thời, hỗ trợ phục hồi, phát triển sản xuất - kinh doanh, phù hợp với quan điểm và mục tiêu tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa - tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Xung quanh nghị quyết này, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính.

T.S Nguyễn Như Quỳnh. (Ảnh: Thùy Dương/TTXVN).

Phóng viên: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 về giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn từ ngày 01/4/2022. Ông đánh giá như thế nào về chính sách thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu nói chung và Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 nói riêng trong bối cảnh giá xăng, dầu biến động như hiện nay?
 
Tiến sĩ Nguyễn Như Quỳnh: Trong những năm gần đây, bảo vệ môi trường đã trở thành vấn đề được nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Nhiều công cụ chính sách đã được nghiên cứu triển khai áp dụng để bảo vệ môi trường; trong đó, thuế bảo vệ môi trường là một trong những công cụ hữu hiệu để hạn chế việc sản xuất, tiêu dùng các loại hàng hóa được cho là có tác động tiêu cực đối với môi trường. Tại Việt Nam, Luật Thuế bảo vệ môi trường quy định 8 nhóm hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế và khung thuế bảo vệ môi trường đối với các nhóm hàng hóa đó.
 
Căn cứ nguyên tắc điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường tại Luật Thuế bảo vệ môi trường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 về Biểu thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực từ ngày 01/01/2019; trong đó, quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol) là 4.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít; dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn là 2.000 đồng/lít; dầu hỏa là 1.000 đồng/lít và mỡ nhờn là 2.000 đồng/kg.

 

Trong những tháng đầu năm 2022, giá xăng dầu thế giới có xu hướng tăng cao do nhu cầu tiêu thụ tăng trong bối cảnh phục hồi kinh tế và căng thẳng Nga - Ukraine. Theo Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ (EIA), giá dầu WTI bình quân giao ngay tháng 3/2022 đạt 108,5 USD/thùng, tăng 18,4% so với tháng 2/2022 và tăng 74,1% so với tháng 3/2021; giá dầu Brent bình quân giao ngay ở mức 117,25 USD/thùng, tăng 20,71% so với tháng 2/2022 và tăng 79,3% so với tháng 3/2021.  

Việc giá xăng, dầu tăng cao sẽ gây áp lực lớn đến chi phí sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như tiêu dùng của người dân, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp. Do đó, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan có liên quan nghiên cứu trình Chính phủ, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn.

 
Cụ thể, từ ngày 01/4/2022 đến hết ngày 31/12/2022, mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn giảm 50% (xăng, trừ etanol còn 2.000 đồng/lít; dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn còn 1.000 đồng/lít; mỡ nhờn còn 1.000 đồng/kg); mức thuế bảo vệ môi trường đối với dầu hỏa giảm 70% còn 300 đồng/lít; thuế bảo vệ môi trường đối với nguyên liệu bay giữ như mức 1.500 đồng/lít theo Nghị quyết số 13/2021/UBTVQH15.

 

Tôi cho rằng, Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 được ban hành kịp thời, góp phần ổn định giá xăng dầu trước biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới. Từ đó, làm hạn chế sự gia tăng chi phí sản xuất, ổn định lạm phát, hỗ trợ phục hồi, phát triển sản xuất - kinh doanh, phù hợp với quan điểm và mục tiêu tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa - tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Theo ước tính của Bộ Tài chính, việc giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 sẽ làm giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 23.954 tỷ đồng, nhưng chính sách trên đã thể hiện sự chia sẻ khó khăn của Nhà nước đối với người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn nêu trên vẫn đảm bảo trong khung thuế được quy định tại Luật Thuế bảo vệ môi trường nên vẫn đảm bảo nguyên tắc phù hợp với mức độ gây tác động xấu đến môi trường của hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.

Phóng viên: Có một số ý kiến cho rằng, thuế nhập khẩu cũng là một công cụ chính sách phù hợp, có thể được sử dụng để linh hoạt điều chỉnh giá bán xăng dầu trong nước. Theo ông có cần điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng không?

Tiến sĩ Nguyễn Như Quỳnh: Về thuế nhập khẩu ưu đãi, Nghị định số 57/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/5/2020 quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với mặt hàng xăng là 20%; các mặt hàng dầu diezen, mazut, dầu hỏa và nhiên liệu bay là 7%.

 
Về thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, theo các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên thì mặt hàng xăng bao gồm cả E5, E10 có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (thuế suất FTA) theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA) là 8%; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu (VNEAEU) là từ 8 - 8,8% và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) là 20%. Các mặt hàng dầu diezen, mazut, dầu hỏa và nhiên liệu bay có mức thuế nhập khẩu FTA theo Hiệp định VNEAEU là 7%, theo Hiệp định ATIGA và Hiệp định VKFTA là 0%.

 

 

Dự báo thời gian tới, khi dịch bệnh được kiểm soát và các chuỗi cung ứng được phục hồi, tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất FTA sẽ tăng trở lại. (Ảnh minh họa: Xuân Triệu/ TTXVN).

Hiện nay, xăng, dầu nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu từ thị trường các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu. Thời gian gần đây, do dịch bệnh phức tạp ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng nên lượng xăng, dầu nhập khẩu theo thuế suất MFN có xu hướng tăng nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 6% tổng nhu cầu xăng dầu tiêu thụ của cả nước.

Dự báo thời gian tới, khi dịch bệnh được kiểm soát và các chuỗi cung ứng được phục hồi, tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất FTA sẽ tăng trở lại.

Từ những phân tích trên cho thấy, trong điều kiện hiện nay, việc điều chỉnh giảm mức thuế suất MFN đối với xăng dầu khó có thể làm cho giá xăng dầu trong nước giảm do xăng dầu nhập khẩu theo thuế suất MFN chiếm tỷ trọng rất thấp. Cùng với đó, việc điều chỉnh giảm thuế suất MFN đối với mặt hàng xăng dầu sẽ thu hẹp dư địa đàm phán các Hiệp định FTA mới theo nguyên tắc có đi có lại.

 

Phóng viên: Vậy, ông so sánh như thế nào về giá xăng dầu hiện nay của Việt Nam với các nước trong khu vực?

Tiến sĩ Nguyễn Như Quỳnh: Theo công bố của GlobalPetrolPrice.com, giá bán lẻ xăng dầu của Việt Nam ngày 04/4/2022 đứng ở vị trí thứ 79/170 nước, thấp hơn cả 3 quốc gia láng giềng Trung Quốc, Lào, Campuchia và một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Philippines.

 
Cụ thể, giá xăng Việt Nam là 1,301 USD/lít, thấp hơn giá xăng tại Trung Quốc (1,474 USD/lít), Campuchia (1,432 USD/lít), Lào (1,728 USD/lít), Thái Lan (1,380 USD/lít), Philippines (1,454 USD/lít). Lý do chủ yếu là vì tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của Việt Nam hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung.
 
Cụ thể, nếu giá dầu thô thế giới là 80 USD/thùng thì tỷ trọng thuế trong giá là khoảng 38% đối với xăng, 20% đối với dầu. Nếu giá dầu thô thế giới là 100 USD/thùng thì tỷ trọng này khoảng 35% đối với xăng, 18,4% đối với dầu. Trong khi đó, tỷ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng từ 45 - 60%, ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn. Ngoài ra, trong giá bán xăng dầu còn có 5 - 8% chi phí vận chuyển và lợi nhuận định mức. Do đó, giá xăng của Việt Nam chỉ bằng khoảng 88% giá xăng Trung Quốc, 91% giá xăng Campuchia, 75% giá xăng Lào; 94% giá xăng Thái Lan và 89% giá xăng Philippines.

 

Do đó, việc điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn theo Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 nêu trên theo tôi là phản ứng chính sách rất linh hoạt nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước trên cơ sở phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Đồng thời, thể hiện nỗ lực, quyết tâm của Quốc hội, Chính phủ trong việc thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông.

 

Cùng chuyên mục

Đọc thêm