Tài chính

Nợ xấu ngân hàng leo cao kỷ lục, tỷ lệ bao phủ giảm xuống đáy 5 năm

Nợ xấu tiếp tục là điểm nghẽn và trở thành một trong những thách thức lớn nhất của ngành ngân hàng trong nửa đầu 2025. Theo dữ liệu ngành của Wichart, trong 6 tháng đầu năm, số dư nợ xấu (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) của ngành ngân hàng tiếp tục tăng thêm hơn 16% so với cuối năm 2024, lên 267.329 tỷ đồng. Đây là mức nợ xấu cao kỷ lục của ngành ngân hàng.

Theo thống kê từ báo cáo tài chính của 29 ngân hàng (bao gồm 27 ngân hàng niêm yết và Agribank, BaoVietBank) đã công bố báo cáo tài chính quý II/2025, số dư nợ xấu của 23/29 nhà băng đã tăng so với cuối năm 2024, trong đó có tới 21 nhà băng tăng trưởng số dư nợ xấu ở hai con số. 

Không chỉ tập trung ở những ngân hàng quy mô nhỏ, đà tăng nợ xấu còn xuất hiện ở nhiều ngân hàng lớn thuộc nhóm Big4 và các ngân hàng tư nhân hàng đầu, phản ánh rõ nét áp lực chất lượng tài sản đang bào mòn lợi nhuận và tiềm ẩn rủi ro cho toàn hệ thống.

Trong đó, nếu xét về giá trị tuyệt đối, BIDV là ngân hàng có số dư nợ xấu tăng nhiều nhất trong kỳ này (tăng thêm 14.104 tỷ đồng), tương ứng tỷ lệ tăng 49% so với cuối năm 2024 và HDBank (tăng thêm 4.368 tỷ đồng) hay 51%. 

Nhìn chung trên số liệu toàn ngành, có thể thấy nợ xấu gia tăng chủ yếu ở các khoản nợ nhóm 3 và nợ nhóm 5. Trong khi đó, có 6 nhà băng đi ngược chiều khi có số dư nợ xấu giảm sau sáu tháng đầu năm bao gồm BaoVietBank (giảm 5%), VietABank (giảm 7%), Agribank và ACB (cùng giảm 8%), ABBank (giảm 15%), NCB (giảm 29%).

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng đang tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng, đặc biệt đặt trong bối cảnh hiện tại khi năm 2025 được xác định là năm tăng tốc, bứt phá để về đích cả nhiệm kỳ 2021-2025 và mục tiêu tăng trưởng GDP ít nhất 8%. 

Nguyên nhân xuất phát từ kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn; thị trường bất động sản và chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp phục hồi chậm. Các tổ chức mua bán nợ cũng gặp vướng mắc khi thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm do thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng và đồng bộ.

 

Thực tế cho thấy nợ xấu đã bắt đầu gia tăng từ quý I/2025 khi Thông tư 02 đã chính thức hết hiệu lực vào cuối năm ngoái, khiến các khoản nợ không còn được cơ cấu hay giãn nợ, buộc phải ghi nhận vào nội bảng, từ đó đẩy tỷ lệ nợ xấu tăng lên.

Bàn về vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân cho biết về mặt kinh tế, các doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn do phải gồng gánh hậu quả từ COVID-19, xung đột. Có thể thấy doanh nghiệp đang vượt rất nhiều cơn sóng để tồn tại, khiến cho một số doanh nghiệp không trụ vững được, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu gia tăng. 

Trong một khảo sát gần đây nhất do NHNN thực hiện, các tổ chức tín dụng (TCTD) nhận định tỷ lệ nợ xấu tiếp tục chiều hướng giảm nhẹ trong quý II và kỳ vọng giảm mạnh hơn trong quý III trái ngược với nhận định “tăng” của cùng kỳ năm trước.

Tại kỳ điều tra này, các TCTD tiếp tục điều chỉnh giảm dự báo về tỷ lệ nợ xấu/dư nợ tín dụng bình quân toàn hệ thống tính đến cuối năm 2025 so với kết quả ghi nhận tại kỳ điều tra. Ngoài ra, rủi ro tổng thể từ các nhóm khách hàng được đánh giá tăng nhẹ, song các TCTD cho rằng đến cuối năm 2025, mức độ rủi ro sẽ giảm nhẹ so với cuối 2024, thể hiện sự kỳ vọng vào hiệu quả giám sát và chất lượng cho vay.

Triển vọng cải thiện nhờ khung pháp lý mới

Trao đổi với người viết, chuyên gia Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, nhận định áp lực nợ xấu hiện nay đang có xu hướng tăng và khả năng còn tiếp tục tăng trong thời gian tới khi tín dụng được mở rộng.

“Trong tài chính, nguyên tắc "high risk, high return"  luôn đúng. Khi dư nợ tín dụng tăng, nợ xấu phát sinh là điều tất yếu”, ông Minh nói.

Tuy nhiên, vị chuyên gia cũng nhấn mạnh một số yếu tố tích cực hỗ trợ giảm áp lực nợ xấu. Theo đó, NHNN đã nhanh chóng luật hóa Nghị quyết 42, điều này sẽ giúp hệ thống có khung pháp lý rõ ràng để xử lý nợ xấu, với mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống dưới 3%.

Bên cạnh nền tảng pháp lý, triển vọng tăng trưởng kinh tế cũng đóng vai trò hỗ trợ. Theo ông Minh, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 8% và giai đoạn 2025–2030 duy trì tốc độ tăng trưởng kép hàng năm ở mức hai con số, tạo điều kiện để giảm áp lực nợ xấu.

Xét về cơ cấu, vị chuyên gia cho biết phần lớn nợ xấu vẫn tập trung ở nhóm bất động sản, bao gồm cả trái phiếu. Năm 2024, một số cải cách, đặc biệt là sửa đổi Luật Đất đai, đã giúp giảm đáng kể rủi ro trên thị trường bất động sản. Bên cạnh đó, Chính phủ hiện đang thúc đẩy kích cầu bất động sản, đưa giá cả về mức phù hợp với cung – cầu thực, từ đó kỳ vọng nhu cầu phục hồi.

Chuyên gia dự báo, năm 2025 có thể đánh dấu sự phục hồi của thị trường bất động sản và năm 2026 sẽ bước vào chu kỳ tăng trưởng trở lại, qua đó góp phần giảm áp lực nợ xấu trong thời tới. "Theo cá nhân tôi cho rằng rủi ro nợ xấu là có, tuy nhiên chưa ở mức cao và cảnh báo trên toàn hệ thống của ngân hàng", ông Minh khẳng định. 

Theo ông Minh, ngoài ra việc NHNN đang lộ trình nâng chuẩn Basel II lên Basel III, cũng sẽ góp phần giảm áp lực nợ xấu. Dù hiện tại việc áp dụng mới ở mức khuyến khích, đến năm 2030 sẽ bắt buộc toàn bộ hệ thống. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng bộ đệm vốn, qua đó giảm rủi ro và nâng cao an toàn vốn. 

Về triển vọng nửa cuối năm 2025 và năm 2026, chuyên gia nhận định rủi ro nợ xấu vẫn có xu hướng tăng nhưng khả năng duy trì được dưới 3% toàn hệ thống. Một số ngân hàng có thể chạm ngưỡng xấp xỉ 3%. Áp lực nợ xấu lớn nhất hiện không nằm ở mảng tiêu dùng hay bán lẻ, mà chủ yếu ở bất động sản.

"Nếu năm 2022, rủi ro nợ xấu ở mức rất cao, thì đến năm 2025, rủi ro nợ xấu đã cải thiện đáng kể. Các tài sản bảo đảm từ bất động sản vốn kém thanh khoản trước đây, nay đã có thanh khoản tốt hơn, rủi ro pháp lý cũng giảm rõ rệt. Đây là yếu tố quan trọng giúp hệ thống kiểm soát được tỷ lệ nợ xấu dưới 3% vào cuối năm, dù vẫn tồn tại áp lực gia tăng", ông cho hay. 

 

Đồng quan điểm, các chuyên gia VIS Rating cũng kỳ vọng chất lượng tài sản ngành ngân hàng có thể cải thiện trong thời gian tới, nhờ thị trường bất động sản dần phục hồi và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Chính phủ phát huy hiệu quả.

Nhóm phân tích VIS Rating dự báo tỷ lệ nợ có vấn đề sẽ giảm khi khả năng trả nợ của khách hàng cải thiện nhờ các yếu tố như đầu tư công, FDI  ổn định, thặng dư thương mại và các nỗ lực cải cách pháp lý sẽ thúc đẩy kinh doanh trong nước và cải thiện dòng tiền của doanh nghiệp. 

"Tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành sẽ giảm xuống 2,2% trong năm 2025 và được dẫn dắt bởi SOBs và một vài ngân hàng lớn có hoạt động cho vay thận trọng và ít cho vay các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn", báo cáo nêu rõ. 

Tuy nhiên, ngược lại một số ngân hàng nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn với các khoản vay nhà ở gắn với dự án đầu cơ. Trong thời gian tới, rủi ro quản trị vẫn ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có liên kết chặt chẽ với các tập đoàn lớn trong lĩnh vực bất động sản.

Bộ đệm dự phòng thu hẹp, rủi ro chi phí trích lập

Một trong những diễn biến đáng lo ngại là tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) toàn hệ thống đã giảm mạnh xuống chỉ còn 80%, so với mức đỉnh 149% vào quý I/2022. 

Theo dữ liệu từ Wichart, số dư dự phòng rủi ro vào cuối quý II/2025 của các ngân hàng niêm yết ở mức 213.393 tỷ đồng, tăng 3,2% so với cuối năm ngoái. Trong khi đó, số dư nợ xấu tăng tới hơn 16,2%, lên gần 267.329 tỷ đồng. 

Điều đó dẫn đến tỷ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng/số dư nợ xấu) của những ngân hàng trên đều giảm so với thời điểm cuối năm ngoái. Xét chung toàn ngành, tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong nửa đầu năm 2025 đã giảm 10 điểm %, từ 90% xuống còn 80% trong kỳ này - mức thấp kỷ lục trong vòng 5 năm qua. 

Theo thống kê từ báo cáo tài chính quý II/2025 của 29 ngân hàng (bao gồm 27 ngân hàng niêm yết và Agribank, BaoVietBank), tỷ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng/số dư nợ xấu) phần lớn nhà băng đều giảm so với thời điểm cuối năm ngoái.

Theo số liệu thống kê, chỉ có 9/29 ngân hàng báo cáo tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng trong nửa đầu qua. Đặc biệt, nhóm ngân hàng lớn như Techcombank, ACB, MB, VPBank ghi nhận tỷ lệ LLR giảm xuống.

Hiện còn 5 ngân hàng duy trì được tỷ lệ bao phủ trên ngưỡng 100% là Vietcombank, Agribank VietinBank, Techcombank, Bac A Bank. BIDV đã rời nhóm này khi ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ 133,7% từ đầu năm xuống còn 89,1% cuối quý II. 

Nhóm ngân hàng Big4 phần lớn đều thực hiện trích lập khá đầy đủ, đảm bảo dự phòng rủi ro cho nợ xấu; tuy nhiên hai "ông lớn" VietinBank và BIDV có bộ đệm vốn khá là mỏng so với quy mô tổng tài sản của hai ngân hàng. 

Bên cạnh đó, các ngân hàng tầm trung trở xuống có rủi ro tiềm ẩn trong tương lai, nguyên nhân do bộ đệm vốn các ngân hàng khá là mỏng, trong khi đó nguồn huy động cũng khá kém, tỷ lệ CASA thấp. Trong đó, giới phân tích đánh giá các ngân hàng thương mại tư nhân quy mô nhỏ với bộ đệm vốn yếu hơn sẽ phải đối mặt với áp lực chi phí dự phòng cao trong năm nay,ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận.

Các tin khác

Những lý do gây khó khăn khi bán nhà

Rao bán nhà là việc tưởng chừng đơn giản nhưng lại khiến không ít người phải đau đầu vì rao mãi vẫn không có người mua.