Văn bản nêu rõ, hiện còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc triển khai các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, mua bán nợ.
Theo Hiệp hội, Sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2024 và quy định về thu giữ TSBĐ để xử lý nợ xấu của TCTD không được luật hóa đưa vào Luật Các TCTD năm 2024, do đó các TCTD chỉ có thể áp dụng cơ chế khởi kiện ra tòa án, gây khó khăn, chậm trễ, tăng chi phí cho các TCTD trong hoạt động xử lý TSBĐ.
Ngoài ra, trên thực tế, nhiều khách hàng biết TCTD không có quyền thu giữ TSBĐ của TCTD đã hết hiệu lực, cố tình chây ỳ và bất hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý TSBĐ, vì vậy, việc xử lý TSBĐ của các TCTD càng khó khăn hơn.
Ngoài ra, theo quy định thì TCTD được phép nhận TSBĐ để thay thế nghĩa vụ trả nợ và được sở hữu tài sản nhận thay thế nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc nhận TSBĐ thay thế nghĩa vụ trả nợ của các TCTD gặp nhiều vướng mắc do các cơ quan ĐKĐĐ địa phương có cách hiểu không thống nhất về việc nhận TSBĐ thay thế nghĩa vụ trả nợ. TCTD chỉ được chiếm hữu mà không được chuyển quyền sở hữu TSBĐ nhận thay thế nghĩa vụ trả nợ hoặc TCTD không thể nhận chuyển nhượng đối với các loại đất không phải là đất thương mại dịch vụ, chẳng hạn như: đất ở, đất nông nghiệp… và yêu cầu phải thực hiện thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì mới đồng ý thực hiện thủ tục chuyển nhượng tài sản cho TCTD…. Điều này dẫn đến rủi ro tranh chấp, TCTD khó có thể chủ động trong việc xử lý tài sản.
Hiệp hội cũng cho biết, hiện nay khi thẩm định TSBĐ, không có quy định pháp luật yêu cầu TCTD phải kiểm tra về chủ sở hữu tài sản trước chuyển nhượng và cũng không có cơ sở yêu cầu chủ sở hữu tài sản hiện tại (trên GCN) cung cấp thông tin của bên chuyển nhượng do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cơ quan có thẩm quyền cấp hợp pháp.
Mặt khác, do quyền sử dụng đất có thể được chuyển nhượng nhiều lần giữa nhiều chủ thể, nếu một trong số giao dịch chuyển nhượng bị vô hiệu thì TCTD không có điều kiện để biết/lường trước được sự việc để thẩm định, kiểm tra vì TCTD không có chức năng, thẩm quyền để thẩm tra nguồn gốc hình thành lên TSBĐ. Do đó, nếu quy trách nhiệm về thẩm định cho ngân hàng, theo đó ngân hàng phải có tài liệu chứng cứ chứng minh như yêu cầu tại Mục 1 Phần III Công văn số 02/TANDTC-PC sẽ gây khó khăn rất lớn, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của TCTD, bên thứ ba ngay tình theo quy định pháp luật.
Hiệp hội Ngân hàng đề xuất Luật hoá các quy định chưa được kế thừa đầy đủ từ Nghị quyết 42/2017/QH14 để đảm bảo quyền lợi của bên cho vay là TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu.
Cụ thể, bổ sung quyền thu giữ của TCTD trong trường hợp quyền thu giữ TSBĐ của TCTD đã được thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm và/hoặc trong Biên bản thỏa thuận và/hoặc trong Biên bản làm việc.
Việc luật hóa quy định này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, theo đó mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng. Đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp và cơ quan công an trong việc phối hợp, tạo điều kiện cho TCTD thu giữ TSBĐ.
Việc bán khoản nợ xấu phát sinh từ tất cả các nghiệp vụ cấp tín dụng mà không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ cho vay và bảo lãnh như hiện nay.
Đồng thời, kiến nghị ban hành quy định cho phép Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại Tòa án với các điều kiện được nêu tại Điều 8 Nghị quyết số 42 được hướng dẫn thực hiện bởi Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP mà không cần phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 317 BLTTDS 2015; Mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ và tranh chấp tín dụng thay vì chỉ áp dụng đối với “tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu” như Nghị quyết 42 trước đây quy định.