Phát biểu tại toạ đàm “Kinh tế - xã hội Việt Nam 2021 - 2025: Chống chịu và bứt phá” do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức, GS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu - Singapore, cho rằng muốn đạt tới đẳng cấp toàn cầu như Singapore và Hàn Quốc… thì mức tăng trưởng kinh tế cần ít nhất 10 - 12%/năm.
"Tuy nhiên, không nên chạy theo 'phần ngọn' là bơm tiền vào để tạo đà tăng trưởng trong khi hy sinh mặt nền tảng về thể chế, quy chế", ông Khương lưu ý.
Theo ông, trong số 29 ngành công nghiệp, Việt Nam có rất nhiều ngành có thế mạnh, tăng trưởng 15 - 20% nếu được tạo điều kiện nền tảng.
Vì vậy, ông bày tỏ mong muốn, thời gian tới Chính phủ sát cánh cho từng ngành, mỗi ngành đều có chiến lược phát triển đến 2045, từ ngành thép đến nhựa, bất động sản… - mỗi ngành đều cần hỗ trợ tối đa để phát triển.
Bên cạnh đó, chuyên gia cũng chỉ ra ba thách thức lớn nhất mà Việt Nam vượt qua. Thứ nhất, cần tạo ra những phát triển vượt bậc trong cải cách thể chế bắt đầu từ những vấn đề rất đơn giản.
Những văn bản luật pháp, chính sách soạn ra phải làm sao để người dân hân hoan đón nhận, hơn là tạo ra sự ức chế. Quy trình ra chính sách phải như một sản phẩm, phải có phòng thí nghiệm, phải có chuyên gia đánh giá, thử nghiệm rồi mới đưa ra, TS. Vũ Minh Khương đề xuất.
"Theo tôi chính sách, luật pháp cần tham khảo các nước, không vội vàng. Chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của các nước, cho kiểm nghiệm một thời gian. Các nước tham khảo thật kỹ bằng các chính sách sau đó mới ban hành luật. Đó là điểm thể chế mà tôi cho là cơ hội rất lớn. Nếu làm được tốt cái này thì tăng trưởng nhiều %, có nền tảng", ông nói.
Hai là, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lớn nhưng phải làm sao tăng giá trị gia tăng ở trong mỗi USD xuất khẩu. Tất cả các ngành, các chuyên gia bàn với nhau, từ con tôm, đến máy tính điện tử… để làm sao tăng giá trị hàm lượng của Việt Nam lên cao.
Việt Nam tự hào về tăng lượng xuất khẩu nhưng cần tăng giá trị gia tăng đem lại. Đặc biệt trong toàn cầu hoá, cần xác định đối tác chiến lược. Ngay cả thị trường Trung Quốc, nên mở ra một cách toàn diện.
"Chúng ta nên tăng cường nhiều văn phòng lớn ở Trung Quốc để tìm hiểu thấu đáo rằng tiếp cận thị trường này như thế nào. Thị trường đó lớn tương đương với Mỹ lại ngay gần chúng ta mà chúng ta không khai thác được thì là một thiệt thòi", TS. Khương nhìn nhận.
Điểm thách thức thứ ba của Việt Nam là nguồn nhân lực còn hạn chế, năng lực sáng tạo còn yếu. Đây lại là điểm mạnh rất lớn để chúng ta tạo ra những khu thương mại tự do ở các thành phố lớn và cho phép nếu doanh nghiệp vào nghiên cứu phát triển hay các đại học trong tốp 100 mở trong đó sẽ được ưu đãi rất đặc biệt, không kém gì Singapore.
Đây là những bước ngoặt rất lớn và tạo ra thi đua mạnh mẽ của đại học Việt Nam để trở thành nơi thu hút được sinh viên toàn cầu và đồng thời tạo thành hệ sinh thái mở ở Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng… để Việt Nam trở thành tâm điểm cho thế giới đến tham khảo.
Ông cho rằng Việt Nam đang nổi bật lên ngay cả ở những thời điểm rất khó khăn song cũng cần có những bước chuyển chiến lược trong ưu tiên trọng điểm.
Nếu chúng ta tăng trưởng đơn thuần thì chỉ giúp quy mô mở rộng, nhưng tiến hóa là sự phát triển vượt bậc, bao hàm tính cộng hưởng, tầm nhìn tương lai và ý thức trách nhiệm, chuyên gia phân tích.
"Kinh nghiệm tôi nghiên cứu từ Bình Dương (Việt Nam) với Thâm Quyến (Trung Quốc) cho thấy họ rất chú trọng tiến hóa, luôn luôn nâng cấp lên để trở thành thành phố toàn cầu. Trong khi đó, dù Bình Dương hiện đã rất lớn, nhưng vẫn ở mức độ gọi là "extension" (mở rộng) thay vì tiến hóa thực sự. Đây là điểm chúng ta cần đặc biệt chú ý", ông Khương chỉ ra.
Thứ hai là, việc chỉ tập trung vào điểm nghẽn sang tập trung vào điểm xung yếu của hệ thống. Việc này tạo ra đột phá, tạo quỹ đạo mới. Còn lại, nếu chỉ tập trung vào điểm nghẽn thì vẫn là quỹ đạo cũ, chỉ là nhanh hơn thôi, rất vất vả mà nhiều khi không tạo ra thành quả mà chúng ta kỳ vọng.
Nhiều nước không phát triển được cao vì bị thiên lệch vào "trục tung" (tích lũy nguồn lực; tăng năng lực; nỗ lực cao) chứ không tích số nó với "trục hoành" (nguồn lực đầu tư vào đâu để tạo thực lực; năng lực, động lực nào thúc đẩy và nỗ lực của cá nhân, ngành, địa phương) thì có thành tổng lực không.
Tổng lực có sức mạnh hơn rất nhiều, các địa phương với nhau, các doanh nghiệp với nhau, các ngành nghề với nhau. Việt Nam có sức mạnh tiềm tàng ở đó, chuyên gia nhìn nhận.
Ông chỉ ra rằng, kinh nghiệm sức mạnh của hệ thống từ Singapore hay Trung Quốc thì tôi thấy sức mạnh hệ thống, nơi "1 cộng 1 bằng 11", tạo ra giá trị vô vàn và tạo ra lòng tin. Trong lược đồ để chuyển thành Nhà nước kiến tạo, phát triển, ta phải đi từ vòng tròn nội tiếp sang vòng tròn ngoại tiếp trên ba trục giá trị.
Thứ nhất, kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân rất tốt, nhưng cần phát triển thêm bộ máy nhà nước, bộ máy công quyền ưu tú để hỗ trợ kinh tế tư nhân và thị trường; như "hai bàn tay vỗ vào nhau" thì mới vang dội được.
Thứ hai, khi chúng ta hội nhập quốc tế sâu rộng thì phải chú trọng năng lực thẩm thấu, khả năng sáng tạo và nguồn lực con người. Nếu chỉ hội nhập sâu, xuất khẩu nhiều nhưng đội ngũ nhân lực yếu, khả năng thẩm thấu và sáng tạo hạn chế thì không thể phát triển bền vững.
Thứ ba, phát triển hạ tầng đang rất tốt nhưng làm sao gắn kết hạ tầng và đặc biệt là xây dựng các thành phố trụ cột - thành phố toàn cầu.
Với Hà Nội và TP HCM, việc phát triển hệ thống tàu điện ngầm tương tự các thành phố ở Trung Quốc trong vòng 10-15 năm sẽ thu hút dân cư và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Hà Nội sẽ là chủ đạo cho cả miền Bắc, TP HCM phải chủ đạo cho toàn bộ Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ còn miền Trung thì có Đà Nẵng.
"Tôi tin rằng nếu Chính phủ tiếp tục với tinh thần quyết liệt như 5 năm vừa qua, trong giai đoạn 2025-2030, Việt Nam sẽ tạo ra những bước tiến vượt bậc, trở thành bài học cho thế giới", TS. Khương cho hay.












