Những năm gần đây, khu vực miền núi phía bắc liên tục hứng chịu những trận mưa lớn cực đoan, vượt xa sức chịu đựng của cả hệ thống tự nhiên lẫn hạ tầng đô thị.
Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, đợt mưa lũ tháng 9.2024 do hoàn lưu bão số 3 (Yagi) gây ra tạo nên lũ đặc biệt lớn trên hầu hết các sông miền Bắc. Lũ trên sông Thao, Cầu, Thương, Lục Nam đều vượt mốc lịch sử hơn 40 năm. Một năm sau, từ ngày 6 - 10.10.2025, miền Bắc lại chìm trong biển nước. Hầu hết các kỷ lục cũ của năm 2024 bị phá vỡ, hơn 230.000 ngôi nhà ngập sâu, hàng chục sự cố đê điều xảy ra. Đặc biệt, sông Cầu 2 năm liên tiếp vượt mốc lịch sử - điều chưa từng có trong chuỗi số liệu thủy văn VN.

Hàng nghìn ngôi nhà ở Bắc Ninh ngập nước
ẢNH: ĐÌNH HUY
Hà Nội cũng không thoát khỏi tình trạng ngập diện rộng, nhiều tuyến phố trung tâm ngập 0,5 - 0,8 m trong nhiều ngày liên tiếp. Tần suất và cường độ mưa lớn cho thấy hiện tượng ngập đô thị đang trở nên thường xuyên, phản ánh giới hạn chịu đựng của hạ tầng trong bối cảnh khí hậu cực đoan và đô thị hóa nhanh.
Con người đã chiếm mất không gian của lũ
TS Lương Hữu Dũng, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu thủy văn và hải văn (Viện Khoa học khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu) nhìn nhận, ngày nay ngập lụt không chỉ ở đồng bằng hạ lưu mà còn ở các đô thị miền núi, nhất là các đô thị miền núi phía bắc ngày càng nặng nề hơn.
Các đô thị miền núi thường nằm ở thung lũng ven sông suối lớn, nơi ngã ba sông…, có độ cao tương đối thấp so với địa hình xung quanh. Những nơi này là không gian chứa lũ, điều tiết lũ tự nhiên của các con sông. "Do đất chật người đông, nhu cầu mưu sinh, phát triển đô thị mà dần dần con người đã chiếm mất không gian của lũ. Khi gặp lũ lớn, nhất là các con lũ đặc biệt lớn, nước lũ tràn tự nhiên vào các vùng trũng trữ lũ là điều hiển nhiên", TS Dũng nói.
Ông Dũng lấy ví dụ rõ nét nhất chính là các khu đô thị của Thái Nguyên, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang bị lũ lụt vừa qua. Mặc dù các khu vực này địa hình tưởng chừng cao hơn ở đồng bằng, nhưng lại là vùng thấp của phần lưu vực ở thượng và trung du. Lũ trên lưu vực dồn xuống vùng trũng thấp ven sông, gây ngập lụt.
Trong khi đó, hạ du các con sông, lũ lại bị "ép" chảy giữa hai đê hoặc đường làm chậm khả năng thoát lũ, dẫn đến các vùng ngập phía trên bị ngập sâu và lâu hơn.

Tuyến đê tả sông Cầu qua xã Hợp Thịnh (Bắc Ninh) bị tràn, lực lượng chức năng và người dân phải xuyên đêm xử lý
ẢNH: ĐÌNH HUY
Một khía cạnh khác, ngập lụt ở các đô thị miền núi không chỉ đến từ mưa lớn hay lũ thượng nguồn mà còn nằm ở quy hoạch, thiết kế chưa tính đến tích hợp dài hạn; tỷ lệ bê tông hóa quá lớn, san lấp ao hồ, hệ thống thoát nước chưa nâng cấp đủ năng lực và bị lấn chiếm. Ngay cả vùng nông thôn, nơi từng được coi là "vùng trũng tự nhiên điều tiết nước" cũng đang bị thu hẹp, bê tông hóa bởi các khu công nghiệp và khu dân cư mọc lên thiếu kiểm soát.
Cùng quan điểm trên, GS-TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, cho rằng ở nhiều lưu vực sông suối miền núi phía bắc, tỷ lệ che phủ rừng đã giảm mạnh. Rừng tự nhiên bị thay thế bởi rừng trồng kinh tế hoặc đất nông nghiệp, khiến khả năng giữ nước của đất suy giảm mạnh. Khi mưa lớn, bùn đất từ sườn dốc trôi xuống, làm tắc nghẽn dòng chảy, gây ngập cục bộ tại vùng hạ. Trước đây, nước mưa được cây giữ lại dưới đất; nhưng mất cây, nước sẽ đổ ồ ạt xuống các đô thị nằm dọc suối, khiến ngập lụt xảy ra thường xuyên hơn.
Miền Bắc cần sống chung với lũ
TS Lương Hữu Dũng phân tích mưa, lũ lớn, ngập lụt rộng kỷ lục, xảy ra có khả năng lặp lại ngày càng cao hoặc trong tương lai có thể xảy ra vượt lũ lịch sử, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi tư duy, quan điểm, hiểu rõ căn nguyên sâu xa của lũ, ngập lụt. Đây không chỉ là câu chuyện của Chính phủ mà của từng địa phương, từng người dân và của tầm nhìn phát triển quốc gia trong kỷ nguyên khí hậu cực đoan.
"Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiều quan điểm không còn phù hợp. Bởi vì con người không thể "chống" lại vận hành của thiên nhiên, chỉ có thể hiểu đúng để thích ứng với nó. Hay nói cách khác, chúng ta cần chủ động "chung sống" với lũ, tức là có giải pháp để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại. Chúng ta không thể ngăn bão, lũ, ngập lụt, nhưng hoàn toàn có thể giảm thiểu thiệt hại bằng điều chỉnh quy hoạch hợp lý (có tích hợp với biến đổi khí hậu, thiên tai cực đoan), trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, củng cố hệ thống công trình phòng chống lũ (đê điều, hồ chứa, khu chứa lũ…), đầu tư công nghệ dự báo sớm, và đặc biệt là giáo dục cộng đồng về an toàn khí hậu. Thay vì "chống", ta cần "chung sống", TS Lương Hữu Dũng nói và lấy ví dụ ở Nhật Bản và Philippines xây nhà phù hợp, bảo hiểm thiên tai toàn dân và biến việc thích ứng thành năng lực sống của quốc gia.

Người dân Thái Nguyên mặc áo phao để nhận đồ cứu hộ
ẢNH: TUẤN MINH
Theo ông Dũng, chúng ta không nên coi thiên tai như kẻ thù mà là một hiện tượng tự nhiên cần được hiểu sâu, giám sát liên tục, cần tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo mưa lũ, ngập lụt, chuẩn bị sẵn kịch bản ứng phó khẩn cấp, lập các bản đồ sơ tán dân, cứu hộ, cứu trợ để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại và tái thiết thông minh sau thiên tai.
GS-TS Vũ Trọng Hồng cũng khẳng định trong bối cảnh thời tiết cực đoan như hiện nay, miền Bắc cần thay đổi tư duy thành "sống chung với lũ". Trước đây, tư duy này chỉ được sử dụng ở miền Trung.
Ông Hồng cho rằng nước lũ lên nhanh nhưng chỉ tồn tại vài giờ hoặc vài ngày. Vì vậy, người dân cần xây nhà cao tầng, trong đó dùng tầng 2 hoặc 3 là chỗ chứa đồ đạc và nơi trú ẩn để khi nước lũ lên cao có thể ứng phó.
Song song với các phương án trên, ông Hồng cũng cho rằng chính quyền địa phương cần sát sao, sơ tán khẩn cấp những vùng có nguy cơ bị ngập lụt cao. Đây là phương án mà người dân VN có nhiều bài học kinh nghiệm nhất.
Triển khai nhiều giải pháp đồng bộ
GS-TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi VN, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, cho rằng nước sông Cầu vượt đỉnh lũ 2 năm liên tiếp là dấu hiệu cho thấy cần tính toán chính xác lại tần suất xuất hiện của đợt lũ. Hơn nữa, lũ lịch sử hơn 1 m đã vượt tiêu chuẩn lũ mà hệ thống đê cấp 3 có thể đáp ứng. Vì vậy, trong bối cảnh đô thị hóa tăng nhanh thì vùng bảo vệ trong đê cũng cần điều chỉnh, cập nhật hằng năm thay vì phải chờ đợi 5 năm quy hoạch một lần như hiện nay.
Theo ông Học, để thoát nước đô thị hiệu quả, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành xây dựng và thủy lợi. Trên thực tế, 2 ngành này quản lý còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp và không giao nhiệm vụ rõ ràng. Ông lấy ví dụ cụ thể về Thái Nguyên (nơi bị ngập nặng nhất cả nước hồi đầu tháng 10.2025), việc xây dựng đê kiên cố, xóa đi vùng chậm lũ nhưng không tính toán năng lực tổng thể của hệ thống thủy lợi, năng lực thoát lũ của sông.
Ông Phạm Đức Luận, Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và phòng chống thiên tai (Bộ NN-MT), cũng cho rằng cần triển khai đồng bộ các giải pháp như kiểm soát quy hoạch xây dựng để hạn chế bị tác động làm gia tăng ngập lụt; xác định tiêu chuẩn tiêu thoát nước phòng chống ngập úng phù hợp với diễn biến mưa lũ hiện nay, chủ động phân vùng tiêu và chú trọng dành không gian cho thoát lũ, trữ nước, trong đó xây dựng các hồ điều hòa để trữ nước tạm thời chống ngập úng khi mưa lớn. Bên cạnh đó, ngăn chặn và xử lý công trình, nhà ở, đổ chất thải lấn chiếm không gian thoát nước, chứa nước; tăng cường nạo vét hệ thống tiêu, thoát nước và nâng cao năng lực hệ thống tiêu thoát nước; đầu tư, ứng dụng KH-CN để quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm mưa lớn, ngập lụt đối với đô thị để sớm có phương án ứng phó, giảm thiểu thiệt hại. (còn tiếp)
















