Phát biểu tại toạ đàm"Tác động của môi trường lãi suất cao tới ổn định kinh tế vĩ mô và hồi phục tăng trưởng năm 2023" do Viện Nghiên cứu Chính sách (VEPR) tổ chức sáng 11/5, chuyên gia kinh tế Nguyễn Tú Anh cho hay, lãi suất cao đang ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Theo ông Tú Anh, kinh tế Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn, bao gồm sự trầm lắng của thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cùng với sự suy giảm mạnh của hoạt động xuất khẩu trong quý IV/2022.
Mức lãi suất cho vay tăng cao từ tháng 7/2022 và vẫn tiếp tục neo cao cho đến tháng 2/2023, điều này đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Chi phí lãi vay đã chiếm tỷ lệ lớn trong GDP của Việt Nam trong năm 2022, trong khi đó lãi suất cho vay tại Trung Quốc giảm nhanh sau khi bị ảnh hưởng bởi COVID-19 và giúp cho các doanh nghiệp Trung Quốc phục hồi mạnh mẽ.
Tốc độ tăng tín dụng và huy động vốn giảm mạnh trong ba tháng đầu năm 2023, do cầu yếu và lãi suất vẫn cao. Môi trường lãi suất cao đang là yếu tố rủi ro lớn đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
186 ngân hàng Mỹ có nguy cơ sụp đổ
Ông Tú Anh cũng nhấn mạnh lãi suất quá cao cũng gây ra làn sóng đổ vỡ ngân hàng tại Mỹ, thậm chí theo dự báo 186 ngân hàng tại Mỹ có nguy cơ sụp đổ, SBV là một trong những trường hợp điển hình bởi việc không quản trị được rủi ro trong môi trường lãi suất tăng cao.
Đặc biệt, ngoài việc ảnh hưởng đến sức khoẻ của hệ thống doanh nghiệp, môi trường lãi suất cao ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống ngân hàng và nếu ngân hàng khó khăn thì sau đó sẽ ảnh hưởng ngược lại đến doanh nghiệp.
Phân tích thêm về vấn đề này, TS. Cấn Văn Lực cho hay, Fed tăng lãi suất liên tục từ 0,25% lên 5,25% trong một thời gian ngắn khiến giá trị trái phiếu của doanh nghiệp tại Mỹ giảm mạnh.
Vì vậy, những ngân hàng nắm giữ nhiều trái phiếu lập tức bị sụt giảm chất lượng tài sản. Đây là một trong những lý do gây ra sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng tại Mỹ, ông Lực cho hay.
Môi trường lãi suất cao cũng khiến huy động vốn của khu vực các tổ chức kinh tế giảm mạnh và tốc độ huy động vốn của ngành ngân hàng cũng thấp hơn rất nhiều so với tốc độ bình quân trong 10 năm trở lại đây. Tiền gửi khu vực dân cư tăng mạnh, cho thấy sự tăng lên của cảm nhận rủi ro đầu tư, làm giảm nhu cầu thành lập doanh nghiệp.
Theo báo cáo từ VEPR, huy động vốn khu vực tổ chức kinh tế giảm trong khi tín dụng tăng chậm phản ánh tình trạng thanh khoản khó khăn của các doanh nghiệp; những doanh nghiệp tốt có dư thừa thanh khoản đã phải rút tiền gửi về để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của bản thân
Bên cạnh đó, một phần của tiền gửi tổ chức kinh tế giảm là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu có xu hướng chuyển tiền nhàn rỗi ra bên ngoài để hưởng lãi suất USD đang cao, trong khi lãi suất USD tại Việt Nam vẫn duy trì chính sách 0%.
Việt Nam còn dư địa để hạ lãi suất
Nhấn mạnh quan điểm Việt Nam vẫn còn dư địa để hạ lãi suất, ông Tú Anh cho hay, nhiều người có quan điểm cần kiểm soát tín dụng để kiểm soát lạm phát là không chính xác.Cung tiền mới là yếu tố quan trọng trong điều hành lạm phát chứ không phải là tín dụng.
Từ năm 2020 tăng trưởng cung tiền xuống rất thấp, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức chấp nhận được dù chúng ta nhập khẩu lạm phát rất nhiều.
"Nhìn lại năm 2022, tăng trưởng GDP quý I,II,III có vẻ ổn nhưng đến quý IV thì giảm mạnh do đơn hàng sụt giảm, sản xuất suy giảm, chỉ số PMI liên tục dưới 50 điểm", ông Tú Anh cho hay.
Trong bối cảnh khó khăn đó thì lãi suất quý IV/2022 lại tăng gây khó khăn cho doanh nghiệp, lãi suất cho vay trung bình ở mức 12-13% và thực tế có những ngân hàng còn cho vay với mức lãi suất cao hơn.
Một yếu tố nữa là từ năm 2011-2020 Việt Nam chủ yếu là thặng dư cán cân vãng lai, tức là Việt Nam là nước xuất khẩu vốn. Trong hai năm 2021 và 2022 do phải chi phí cho nhập khẩu thuốc và thiết bị phòng chống dịch COVID-19 và chi phí vận tải tăng vọt nên cán cân vãng lai trở nên bị âm nhưng về xu hướng dài hạn thì Việt Nam sẽ vẫn thặng dư cán cân vãng lai và vẫn là nước xuất khẩu vốn.
Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có dư địa để giảm lãi suất khi ở vị thế một nước xuất khẩu vốn, ông Tú Anh cho biết.
Đại diện nhóm nghiên cứu, ông Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng VEPR cũng đưa ra một số khuyến nghị chính sách trong ngắn hạn, gồm: Cân bằng giữa mục tiêu duy trì “ổn định kinh tế vĩ mô” nhưng đồng thời tìm kiếm các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế.
Trong đó, các chính sách tài khoá cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Chính sách tiền tệ cần duy trì trạng thái “thích ứng” với hiện trạng của nền kinh tế có nhiều rủi ro, tiếp tục cân bằng giữa rủi ro tài chính với hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Với tình trạng sụt giảm đơn hàng, cần có những chính sách thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thậm chí triển khai “ngoại giao đơn hàng” như đã từng làm “ngoại giao vaccine. Đồng thời, tiếp tục cải cách thể chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hiệu quả, thống nhất cho doanh nghiệp.