Tổ chức phát hành thẻ, Tổ chức thanh toán thẻ, Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có hợp tác với Tổ chức thanh toán thẻ, Đơn vị chấp nhận thẻ phải từ chối thanh toán thẻ trong các trường hợp sau: Sử dụng thẻ để thực hiện giao dịch thanh toán khống tại Đơn vị chấp nhận thẻ và các giao dịch thẻ bị cấm theo quy định tại Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt; Thẻ đã được chủ thẻ thông báo bị mất; Thẻ hết hạn sử dụng; Thẻ bị khóa.
Tổ chức phát hành thẻ, Tổ chức thanh toán thẻ, Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có hợp tác với Tổ chức thanh toán thẻ, Đợ vị chấp nhận thẻ có thể từ chối thanh toán thẻ khi có nghi ngờ về tính trung thực, mục đích giao dịch của chủ thẻ theo quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Tổ chức phát hành thể, Tổ chức thanh toán thẻ, Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có hợp tác với Tổ chức thanh toán thẻ, Đơn vị chấp nhận thẻ được từ chối thanh toán thẻ theo thỏa thuận trong các trường hợp sau: Số dư tài khoản thanh toán, số dư thẻ, hạn mức tín dụng hoặc hạn mức thấu chi còn lại (nếu có) không đủ chi trả khoản thanh toán; Chủ thẻ vi phạm các quy định của Tổ chức phát hành thẻ trong các thỏa thuận giữa chủ thẻ với Tổ chức phát hành thẻ mà theo đó thẻ bị từ chối thanh toán.
Tổ chức phát hành thẻ có trách nhiệm thông báo bằng văn bản hoặc thông điệp dữ liệu về các trường hợp từ chối thanh toán thẻ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 25 Thông tư 18/2024/TT-NHNN cho Tổ chức thanh toán thẻ;
Khi nhận được thông báo của Tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam hoặc Tổ chức phát hành thẻ ở nước ngoài hoặc Tổ chức thẻ Quốc tế bằng văn bản hoặc thông điệp dữ liệu về các trường hợp từ chối thanh toán thẻ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 25 Thông tư 18/2024/TT-NHNN, Tổ chức thanh toán thẻ có trách nhiệm thông báo lại cho Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có hợp tác với Tổ chức thanh toán thẻ, Đơn vị chấp nhận thẻ.
Các thông báo về việc thẻ bị từ chối thanh toán (bao gồm cả các thông báo của Tổ chức phát hành thẻ ở nước ngoài và Tổ chức thẻ Quốc tế) có hiệu lực kể từ thời điểm bên liên quan đến giao dịch thanh toán thẻ nhận được thông báo bằng văn bản hoặc bằng thông điệp dữ liệu.
Sau khi bên liên quan đã nhận được thông báo mà vẫn thanh toán thẻ và để xảy ra các trường hợp thẻ bị lợi dụng thì việc xác định trách nhiệm do các bên thỏa thuận.