Ông Nguyễn Minh, trưởng Ban pháp lý và thương mại Eni Việt Nam, cho ý kiến về ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí tại Hội thảo lấy ý kiến về dự thảo Luật dầu khí sửa đổi, do Ủy ban Kinh tế Quốc hội phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức tại TP.HCM ngày 3-8.
Sau thời gian lấy ý kiến, đã có nhiều nội dung được sửa đổi trong hợp đồng dầu khí, nhưng theo các chuyên gia, vẫn còn một số điều khoản và quy định trong hợp đồng cần tiếp tục xem xét, chỉnh lý để tăng tính khả thi trong triển khai, chính sách đi vào cuộc sống và không tạo ra những rào cản mới.
Có cần hợp đồng dầu khí bằng tiếng Anh?
Theo một số chuyên gia, dự thảo hiện quy định ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng dầu khí là tiếng Việt trong trường hợp tại thời điểm ký hợp đồng dầu khí, mà nhà thầu được lựa chọn là nhà thầu Việt Nam là chưa phù hợp.
Ông Nguyễn Minh - trưởng Ban pháp lý và thương mại Eni Việt Nam - cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài muốn có hai ngôn ngữ khi ký kết hợp đồng dầu khí. Bởi có những trường hợp, ban đầu hai công ty Việt Nam ký kết với nhau sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, song đến khi công ty nước ngoài muốn tham gia vào thì phải chỉnh sửa rất khó khăn.
Chưa kể, nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ lo ngại nếu muốn tham gia vào hợp đồng dầu khí mà hợp đồng chỉ có ngôn ngữ tiếng Việt, hoặc được dịch sang tiếng Anh.
Đồng quan điểm, ông Vương Minh Đức, giám đốc kỹ thuật và an toàn sức khỏe môi trường Công ty TNHH Thăm dò và Khai thác dầu khí ExxonMobil Vietnam và ông Đỗ Ngọc Thanh, phó tổng giám đốc Công ty TNHH Dầu khí Việt Nhật cũng cho rằng, hoạt động của ngành dầu khí trên thế giới xoay quanh ngôn ngữ tiếng Anh.
Trong đó, có rất nhiều từ ngữ chuyên ngành có thể sẽ không thể giải nghĩa một cách chính xác trong tiếng Việt. Vì vậy, hợp đồng dầu khí được ký kết ngay từ ban đầu bằng tiếng Anh là rất cần thiết, là thông lệ quốc tế, giúp tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, bởi nếu không sửa đổi thì đây sẽ trở thành một rào cản mới trong thu hút đầu tư.
Theo các chuyên gia, đặc thù của hoạt động dầu khí là mang tính quốc tế cao. Ngành dầu khí nước ta vẫn sử dụng ngôn ngữ song ngữ trong hợp đồng là tiếng Việt và tiếng Anh.
Tuy nhiên dự thảo Luật dầu khí (sửa đổi) quy định chỉ sử dụng bản tiếng Việt như trên có thể coi là một điểm đi lùi trong cơ chế chính sách, cũng như không phù hợp với việc xây dựng hệ thống pháp luật, không cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực này.
Vì vậy, các chuyên gia cho rằng nên có quy định việc ký kết hợp đồng dầu khí được thực hiện bằng tiếng nước ngoài thông dụng (thường là tiếng Anh), mà không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà thầu tại thời điểm ký hợp đồng.
Tránh chồng chéo, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với thực tiễn
Bên cạnh đó, nhằm giải quyết xung đột, chồng chéo giữa các luật, thì việc bổ sung quy định về thực hiện chuyển nhượng nếu PVN là bên chuyển nhượng được áp dụng theo Luật dầu khí là cần thiết.
Cũng bởi, trong trường hợp này nếu áp dụng theo Luật quản lý sử dụng vốn nhà nước sẽ không phù hợp với đặc điểm của "tài sản dầu khí". Bởi cần phải tổ chức chào hàng cạnh tranh dựa trên kết quả thẩm định của một tổ chức độc lập về giá trị khởi điểm của tài sản.
Hoạt động dầu khí trên biển ngoài vấn đề kinh tế, còn gắn với an ninh, quốc phòng
Tuy nhiên trên thực tế, không có tổ chức nào có thể định giá được tài sản dầu khí. Trong khi việc thuê các tổ chức thẩm định giá trị tài sản chào bán và tổ chức chào hàng cạnh tranh sẽ khó tránh khỏi việc không đảm bảo các yếu tố về quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, với quy định liên quan đến quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong hoạt động dầu khí, thì dự thảo luật chỉ có quy định thẩm quyền của Hội đồng thành viên (HĐTV) và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp liên quan đến việc sử dụng vốn của PVN và công ty 100% vốn mà PVN tham gia.
Tức là chỉ giao toàn bộ việc phê duyệt sử dụng vốn PVN và các đơn vị thành viên cho HĐTV của tập đoàn, cũng như trách nhiệm của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước chỉ gửi ý kiến về việc sử dụng vốn của PVN để Bộ Công Thương xem xét thẩm định.
Theo các chuyên gia, quy định trên không rõ về trình tự, thủ tục, hồ sơ để HĐTV PVN phê duyệt trong trường hợp thực hiện hoạt động dầu khí theo các giai đoạn của hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) và dự án dầu khí.
Đồng thời cũng không quy định rõ về các bước, trình tự để Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tham gia ý kiến về việc sử dụng vốn của PVN tại các dự án, hoạt động dầu khí. Nếu trong trường hợp Ủy ban Quản lý vốn nhà nước có ý kiến "không đồng ý" hoặc "việc sử dụng vốn của PVN cần xem xét lại" thì Bộ Công Thương có thẩm định và quyết định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được không?
Ngoài ra, khi triển khai dự án thì PVN vẫn phải thực hiện hai quy trình liên quan tới hồ sơ kế hoạch đại cương phát triển mỏ, khai thác sớm mỏ và phát triển mỏ… đến hồ sơ phê duyệt phương án vốn. PVN cũng phải thực hiện phê duyệt riêng nên có thể dẫn tới kéo dài và chồng chéo trong thực hiện thủ tục.