Biên lãi thuần (NIM) là một trong những chỉ số quan trọng nhất đối với hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng. Chỉ tiêu này thể hiện chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi chia cho tài sản sinh lãi. NIM càng lớn đồng nghĩa mảng tín dụng, hoạt động cốt lõi của ngân hàng, càng có khả năng sinh lời cao.
Theo dữ liệu từ WiChart, NIM của các ngân hàng niêm yết tiếp tục xu hướng thu hẹp trong quý II/2025 khi chi phí vốn tăng nhanh hơn lợi suất tài sản sinh lời; ghi nhận ở mức 3,17%, giảm 0,13 điểm % so với quý trước đó, tiệm cận mức đáy ghi nhận tại thời điểm quý I/2019 (3,16%).
Đồng thời, chỉ số này cũng có sự phân hóa mạnh giữa các ngân hàng. Nhóm nhà băng cổ phần với quy mô lớn như VPBank, HDBank ghi nhận NIM vượt mốc 5%. Ngược lại, một số nhà băng quy mô nhỏ chỉ có mức NIM dưới 2%.

NIM ngân hàng tiếp tục xu hướng thu hẹp trong quý II/2025 ghi nhận ở mức 3,17%, giảm 0,13 điểm % so với quý trước đó, tiệm cận mức đáy ghi nhận tại thời điểm quý I/2019.
Trao đổi với chúng tôi, chuyên gia Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, cho biết xu hướng giảm biên lãi thuần kéo dài liên tiếp trong khoảng 2-3 năm vừa qua.
Theo ông Minh, nguyên nhân lớn nhất tạo ra áp lực này đến từ việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang trong giai đoạn nới lỏng chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu cấp thiết từ phía Chính phủ là duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm hỗ trợ nền kinh tế hồi phục, ưu tiên cho tăng trưởng.
Chính vì vậy, việc duy trì lãi suất thấp là nguyên nhân phần lớn khiến áp lực biên lãi ròng của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, theo vị chuyên gia, áp lực còn đến từ bài toán huy động vốn. Trước đây, nhiều ngân hàng có xu hướng mở rộng huy động từ thị trường quốc tế, cụ thể là vay USD kỳ hạn dài để cho vay lại, qua đó tối ưu được NIM.
Tuy nhiên, ông cho biết một đến hai năm trở lại đây, đặc biệt sau năm 2023, lãi suất đồng USD đã tăng lên mức rất cao, khiến các ngân hàng chững lại trong việc huy động trái phiếu hoặc vay USD từ các tổ chức tài chính lớn trên thế giới – vốn là nơi cung cấp chi phí vốn ưu đãi. Khi kênh này không còn hiệu quả, các ngân hàng buộc phải quay lại phụ thuộc phần lớn vào thị trường 1.
Ông Minh lưu ý thêm lãi suất huy động trên thị trường 1 thường biến động cùng chiều với lãi suất cho vay ra, cho nên dẫn đến NIM cũng bị ảnh hưởng thu hẹp.
Đồng quan điểm, trong báo cáo ngành ngân hàng công bố trước đó, Chứng khoán Mirae Asset nhận định trong bối cảnh Chính phủ tái khẳng định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong 2025 và những năm tiếp theo, đồng thời nhấn mạnh vai trò then chốt của tín dụng như một động lực tăng trưởng, ngành này có thể đang bước vào quá trình chuyển giao sang giai đoạn NIM mỏng hơn, phản ánh sự thu hẹp của phần bù rủi ro và nguồn cung được đẩy mạnh.
Dù vậy, chuyên gia chứng khoán Yuanta kỳ vọng tình hình sẽ có chuyển biến tích cực trong thời gian tới. Cụ thể, vào khoảng tháng 9–10 năm nay, kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ bắt đầu chu kỳ giảm lãi suất và tiếp tục xu hướng này trong năm 2026.
Đồng thời, hiện nay lãi suất VND trong nước, đặc biệt ở một số kỳ hạn ngắn đang có dấu hiệu phục hồi và cao hơn so với lãi suất USD. Diễn biến này, theo ông Minh, có thể góp phần giúp NIM phục hồi trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Thế Minh – Giám đốc Khối Nghiên cứu & Phát triển khách hàng cá nhân, Chứng khoán Yuanta Việt Nam (Ảnh chụp màn hình: Minh Nguyệt)
Ngân hàng có tỷ lệ CASA cao và thế mạnh bán lẻ sẽ có lợi thế về NIM
Chuyên gia chứng khoán Yuanta nhận định phần lớn các ngân hàng có lợi thế cải thiện NIM vẫn sẽ là những tổ chức có tỷ lệ CASA cao. Thực tế cho thấy, thời gian gần đây, tỷ lệ CASA tại nhiều ngân hàng đã có xu hướng giảm và đây cũng là một trong những yếu tố khiến NIM chịu ảnh hưởng.
- TIN LIÊN QUAN
-
Cuộc đua CASA vẫn 'nóng', MB, Techcombank tiếp tục dẫn đầu ngành 05/08/2025 - 07:14
Trước đây, các ngân hàng thuộc nhóm dẫn đầu như Techcombank hay VPBank thường có tỷ lệ CASA rất cao. Tuy nhiên, vài năm gần đây, mức CASA của các ngân hàng ghi nhận giảm, dẫn đến biên lãi ròng bị ảnh hưởng.
Theo ông, trong thời gian tới, lợi thế về NIM nhiều khả năng vẫn thuộc về các ngân hàng top đầu - những ngân hàng có bộ đệm vốn tốt và nằm trong nhóm có quy mô tài sản lớn, chẳng hạn như Techcombank, VPBank, Vietcombank hay các ngân hàng quốc doanh.
Đặc biệt, các ngân hàng có thế mạnh trong mảng bán lẻ như Techcombank, VPBank, VIB hay MB được kỳ vọng sẽ có khả năng cải thiện NIM khi hoạt động cho vay tiêu dùng phục hồi.
Vị chuyên gia cũng bày tỏ kỳ vọng, khi nhu cầu đầu tư của người dân quay trở lại trong bối cảnh thị trường vốn sôi động, CASA của các ngân hàng có thể sẽ được cải thiện. Theo ông Minh, trong quý III và quý IV/2025 sắp tới, nhiều khả năng sẽ xuất hiện những điểm sáng về tỷ lệ CASA, từ đó hỗ trợ tích cực cho NIM cải thiện.
Bên cạnh đó, ông nhấn mạnh yếu tố hỗ trợ đến từ chính sách lãi suất quốc tế với kỳ vọng Fed giảm lãi suất, với xu hướng giảm lãi suất của đồng USD, thì các ngân hàng vốn hóa lớn vốn thường xuyên huy động vốn từ thị trường trái phiếu quốc tế có thể quay trở lại kênh huy động này.
Đặc biệt, những ngân hàng có mức xếp hạng tín nhiệm tốt từ trước sẽ có lợi thế trong việc tiếp cận nguồn vốn quốc tế với lãi suất đầu vào, chi phí vốn thấp hơn trong thời điểm tháng 9-10 và sang cả năm 2026. Đây được xem là một trong những yếu tố quan trọng có thể giúp NIM của các ngân hàng này cải thiện trở lại trong giai đoạn tới.
Theo chuyên gia Thế Minh, để cải thiện NIM điều quan trọng đối với các ngân hàng hiện nay là cần kiểm soát tốt chi phí vốn đầu vào, tức là cơ cấu nguồn vốn huy động.
Thực tế, phần lớn ngân hàng hiện nay vẫn đang phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Mô hình này đặt ra thách thức lớn, nhất là trong điều kiện Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì quy định giới hạn tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở mức tối đa 30%. Do đó, để đảm bảo tuân thủ quy định và nâng cao hiệu quả hoạt động, các ngân hàng buộc phải đa dạng hóa và kéo dài kỳ hạn nguồn vốn.
Một số giải pháp được đề cập bao gồm tăng cường huy động vốn trung dài hạn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn dài, phát hành trái phiếu dài hạn, hoặc tăng vốn tự có thông qua phát hành cổ phiếu.
Chuyên gia dẫn ví dụ đến khối ngân hàng quốc doanh, đơn vị có tổng tài sản lớn như BIDV nhưng lại sở hữu bộ đệm vốn còn mỏng.
Trong bối cảnh yêu cầu tăng vốn ngày càng trở nên cấp thiết, các ngân hàng này cần chủ động triển khai các phương án bổ sung vốn để duy trì an toàn vốn tối thiểu, đáp ứng chuẩn Basel II/III, đồng thời có đủ dư địa để nâng cao NIM trong giai đoạn tới.
