Vào đầu những năm 1900, du lịch giải trí nói chung và di chuyển bằng tàu hỏa hạng sang là thứ chỉ được trải nghiệm bởi những người giàu có và thượng lưu.
Vào đầu đến giữa thế kỷ 20, tàu hỏa là một phương tiện phổ biến để đi lại. Qua những bức ảnh cổ điển này, chúng ta có thể thấy hình ảnh du lịch bằng tàu hỏa hạng sang trong những ngày xưa đẹp đẽ như thế nào với đồ nội thất xa hoa và ẩm thực cao cấp, giữ một vị trí đặc biệt trong lịch sử phong phú của ngành đường sắt.
Những năm 1920 và 1930 là thời kỳ hoàng kim cho du lịch đường sắt ở Mỹ và Châu Âu, thời kỳ mà đường sắt được miêu tả như những tiện nghi hiện đại đưa hành khách đến những nơi nghỉ ngơi lãng mạn trong sự sang trọng và thoải mái.
Các tuyến đường sắt của Mỹ đã từng phát triển rất rực rỡ, đưa nền kinh tế Mỹ phát triển. Năm 1825, tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới ra đời ở Anh - nơi khai sinh ra cuộc Cách mạng Công nghiệp. Bốn năm sau, tuyến đường sắt đầu tiên của Mỹ, Đường sắt Baltimore-Ohio, được hoàn thành. Kể từ lúc này, việc xây dựng đường sắt ở Hoa Kỳ bước vào giai đoạn cao trào. Trong 20 năm, tổng số km đường sắt của Mỹ tăng lên 14.000 km. Sự ra đời của các tuyến đường sắt Hoa Kỳ đồng thời với sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do kinh tế ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Kết quả là ngành đường sắt Hoa Kỳ ngay từ khi mới thành lập đã phát triển truyền thống đầu tư của khu vực tư nhân, giống như các ngành kinh tế khác thời bấy giờ.
Đây cũng là một thập kỷ thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế, theo đó, các gia đình trung lưu cũng có thể mua được một trong những thứ xa xỉ nhất khi đi du lịch vào thời điểm đó: ô tô.
Ô tô làm giảm nhu cầu đối với dịch vụ đường sắt chặng ngắn vì mọi người có thể dễ dàng lái xe từ thị trấn này sang thị trấn khác, nhưng trong khoảng thời gian này, đường nhựa vẫn chưa thực sự phổ biến và sự không chắc chắn của các tiện nghi như trạm xăng và nhà hàng ven đường cũng khiến việc đi lại bằng tàu hỏa trên quãng đường dài trở nên thuận tiện hơn và được ưa thích hơn.
Trong 60 năm 1850-1910, Hoa Kỳ đã xây dựng hơn 370.000 km đường sắt, trung bình mỗi năm có hơn 6.000 km. Trong thời kỳ này, các tuyến đường sắt chính và các tuyến nhánh như Đường sắt Santa Fe đã được hoàn thành và lưu thông, hình thành một mạng lưới đường sắt quy mô lớn đan chéo nhau trên bản đồ của Hoa Kỳ.
Trong nhiều thập kỷ, các tuyến đường sắt của Mỹ như New York Central đã bắt tay vào các chiến dịch quảng cáo mới để đối mặt với "mối đe dọa" đánh mất thị trường ngày càng tăng từ ô tô.
Các áp phích, lịch và quảng cáo trên tạp chí đã trình bày những hình ảnh lãng mạn hóa việc đi lại bằng tàu hỏa, và chúng được thay đổi từ vẻ ngoài đến công nghệ cũng như bổ sung thêm nhiều điểm đến mới.
New York Central đã thuê nhà thiết kế công nghiệp Henry Dreyfuss, người đã thiết kế lại không chỉ đầu máy xe lửa và toa chở khách của họ mà gần như tất cả mọi thứ mà hành khách có thể gặp phải từ bộ đồ ăn đến hộp diêm.
Du lịch bằng tàu hỏa đã tạo ra một bước nhảy vọt khác vào năm 1930 khi nó ra mắt với tư cách là những chiếc xe lửa hạng sang, được trang bị đầy đủ điều hòa nhiệt độ và các tiện nghi khác.
Khi những năm 1930 trôi qua, các công ty xe lửa nhận thấy mình buộc phải đẩy mạnh các dịch vụ và tiện nghi khác để thu hút hành khách. Theo đó họ đã nâng cấp toa ăn sao cho thật sang trọng cũng như những toa chở khách phải trông thật sang và xịn.
Tuyến Royal Blue là chuyến tàu hàng đầu của B&O Railroad và được biết đến là nơi có nhiều toa ăn uống tốt nhất cho tuyến đường giữa Thành phố New York và Washington, DC.
Thời kỳ hoàng kim của đường sắt Mỹ trùng với thời kỳ cao điểm của Thế chiến thứ nhất ở Châu Âu. Năm 1916, tổng đầu tư vào ngành đường sắt của Mỹ đạt 21 tỷ USD, gần gấp đôi GDP hàng năm của Anh trước Thế chiến thứ nhất. Năm 1916, thu nhập đến từ hoạt động của các công ty đường sắt Mỹ đạt 3,35 tỷ đô la Mỹ, và tổng số nhân viên của các công ty đường sắt là 1,7 triệu người, tương đương với tổng số nhân viên của lục quân và hải quân của Pháp và Đức trước Thế chiến thứ nhất. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ có tổng cộng gần 600.000 km đường sắt, chiếm khoảng một nửa tổng số dặm đường sắt của thế giới lúc bấy giờ. Vào thời điểm đó, tổng số dặm đường sắt của Anh, Pháp và Đức chỉ là 150.000 km.
Đường sắt đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của Hoa Kỳ từ cuộc cách mạng công nghiệp ở Đông Bắc (1810–1850) đến định cư ở miền Tây (1850–1890).
Sự phát triển cực thịnh của đường sắt Hoa Kỳ bắt đầu với việc thành lập tuyến đường sắt chở hành khách và hàng hóa Baltimore, Ohio vào năm 1827 và sự khởi đầu của công trình xây dựng dài hướng về phía tây vượt qua phía đông dãy núi Appalachian vào năm sau 1828.
Nó phát triển mạnh mẽ với các dự án xây dựng đường sắt liên tục trong 45 năm tiếp theo cho đến khi Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1873 tiếp theo là một cuộc suy thoái kinh tế lớn đã khiến nhiều công ty phá sản và tạm thời kìm hãm, chấm dứt tăng trưởng.
Để khuyến khích sự phát triển chính phủ liên bang đã tặng miễn phí một lượng lớn đất thuộc sở hữu của mình cho các công ty đường sắt. Ngoài ra, còn có các khoản giảm thuế và miễn giảm đối với nguyên liệu thô cần thiết cho việc xây dựng đường sắt, và chính phủ liên bang cung cấp các khoản vay cho các công ty đường sắt dựa trên số dặm xây dựng đường sắt.
Đường sắt đã tạo điều kiện lưu thông thuận lợi cho công nghiệp và nông nghiệp Hoa Kỳ, tuyến đường sắt nối liền hai bờ đông và tây cũng trở thành con đường vàng cho sự phát triển của miền Tây Hoa Kỳ. Nhu cầu vốn khổng lồ để phát triển đường sắt cũng trực tiếp khai sinh thị trường vốn của Mỹ, khiến Mỹ bắt đầu tiến tới và trở thành một đế chế tài chính.
Sự chỉ đạo khiêm tốn và hiệu quả của chính phủ đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của đường sắt Hoa Kỳ; ngành đường sắt Hoa Kỳ đã phát triển thịnh vượng cho nền kinh tế Hoa Kỳ vào thời điểm đó và giúp Hoa Kỳ trở nên vĩ đại.
Sau khi bước vào thế kỷ 20, những mặt hạn chế của đường sắt Mỹ bắt đầu trở nên nổi bật, như phân biệt giá cả, quản lý nội bộ quan liêu và một loạt các triệu chứng điển hình của các doanh nghiệp độc quyền.
Để khắc phục những nhược điểm này, Hoa Kỳ đã phải thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp vào hoạt động đường sắt. Hệ thống đường sắt vẫn do các công ty tư nhân điều hành, nhưng Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp lập pháp để đóng băng giá cước, giảm đầu tư, hạn chế sáp nhập doanh nghiệp trong ngành đường sắt, thậm chí yêu cầu các công ty đường sắt không từ bỏ các tuyến đường sắt "lợi ích công cộng" và vận tải hành khách ngay cả khi họ đang hoạt động thua lỗ.
Cuộc Đại suy thoái đã giáng một đòn mạnh chưa từng thấy vào ngành đường sắt Mỹ. Cho đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hơn 110.000 km đường sắt đã bị phá sản. Sau khi Thế chiến II kết thúc, nền kinh tế Mỹ trở thành động lực cho sự phục hồi sau chiến tranh toàn cầu, nhưng dù vậy, ngành đường sắt Mỹ vẫn chưa lấy lại được ánh hào quang trước đây.
Nguồn: Earthlymission; Nature; NASA; Rarehistoricalphotos