Doanh nghiệp chỉ cần có cơ hội vay vốn
Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% với số tiền từ ngân sách nhà nước 40.000 tỷ đồng là một chính sách lớn của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sau đại dịch COVID-19.
Tuy nhiên, sau 3 tháng triển khai, kết quả thực hiện còn rất khiêm tốn. Theo báo cáo nhanh từ các ngân hàng thương mại (NHTM), doanh số cho vay được hỗ trợ lãi suất đạt gần 4.407 tỷ đồng đối với gần 550 khách hàng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất đạt khoảng 4.300 tỷ đồng; dự kiến số tiền hỗ trợ lãi suất cho khách hàng đến cuối tháng 8/2022 mới chỉ khoảng 13,5 tỷ đồng.
Tại Hội nghị trực tuyến phổ biến, giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP đã ghi nhận ý kiến quan trọng từ lãnh đạo các ngân hàng, các hiệp hội doanh nghiệp liên quan đến những vướng mắc, khó khăn của việc triển khai.
Thứ nhất là về đối tượng được hỗ trợ lãi suất của Nghị định 31. Các lĩnh vực, ngành nghề được hỗ trợ được cụ thể hóa từ Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ, song khi triển khai trong thực tiễn cho thấy các NHTM gặp khó khăn trong xác định đối tượng được hỗ trợ lãi suất trong một số trường hợp khách hàng hoạt động sản xuất - kinh doanh đa ngành.
Ông Nguyễn Trần Mạnh Trung - Phó tổng giám đốc Vietinbank cho biết, nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng kinh doanh đa ngành nghề, việc bóc tách lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất cũng như chứng từ chứng minh đồng vốn vay được sử dụng cho lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất là rất khó.
Trao đổi về khó khăn này, ông Đào Nguyên Vũ - Phó tổng giám đốc Sacombank đề nghị mở rộng đối tượng khách hàng. Bởi ngoài 9 ngành nghề, phần lớn khách hàng hoạt động đa ngành. Do đó, ông Vũ đề nghị nên có tỷ lệ quy định trong các hoạt động đa ngành thì 9 ngành được hỗ trợ chiếm tỷ trọng bao nhiêu để các NHTM yên tâm xem xét hỗ trợ lãi suất.
Đối với hộ kinh doanh, đây là lĩnh vực cần hỗ trợ lãi suất nhiều nhất. Phần lớn các hộ cá thể kinh doanh không có đăng ký kinh doanh; những hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh ở các ngành, lĩnh vực nông thôn nên mở rộng điều kiện, đối tượng này xem xét, xác nhận tại địa phương để các ngân hàng mạnh dạn xem xét hỗ trợ lãi suất.
Thứ hai, vẫn còn tâm lý e ngại của các NHTM khi triển khai thực hiện do một số chương trình hỗ trợ lãi suất, gồm chương trình hỗ trợ lãi suất năm 2009 và một số chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước vẫn chưa được quyết toán số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng.
Thứ ba, đây là trình có nguồn tiền hỗ trợ từ Ngân sách nhà nước nên các NHTM cần thận trọng, đảm bảo dòng tiền hỗ trợ được đến đúng đối tượng, đúng mục tiêu, an toàn và hiệu quả nên các NHTM mất nhiều thời gian chuẩn bị, xây dựng hệ thống tự động để theo dõi, hạch toán, quản lý dữ liệu báo cáo nhằm đảm bảo tính chính xác của dữ liệu trong công tác thanh, quyết toán, kiểm toán khi tham gia Chương trình được hỗ trợ lãi suất từ nguồn ngân sách nhà nước.
Bốn là, một số chi nhánh NHTM đã chủ động liên hệ, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục, hồ sơ hỗ trợ, song bản thân khách hàng (nhất là các doanh nghiệp) cũng có tâm lý e ngại trong trường hợp sơ suất khi tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước, phải tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc NHNN chi nhánh Hà Nội thì cho biết, qua gặp gỡ, trao đổi với các doanh nghiệp cho thấy, họ không mấy mặn mà với chương trình hỗ trợ lãi suất mà chỉ mong ngân hàng cho vay thêm tín chấp, hạ chuẩn cho vay vì hết tài sản đảm bảo, hết cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng.
“Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu về quản trị, nguồn vốn họ mong được kéo dài thời gian vay, gia hạn khoản vay nhiều hơn”, ông Tuấn nói.
Cần đánh giá kỹ lưỡng tác động khi mở rộng đối tượng cho vay
Chia sẻ bên lề Hội nghị, ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, trong thực tế, việc đẩy mạnh giải ngân gói này căn cứ điều kiện vay nợ. Như vậy, doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện vay. Việc không giải ngân hết không quá quan trọng bởi vì thực tế các doanh nghiệp trong quý 4/2021 và 8 tháng đầu năm 2022 đã phục hồi mạnh mẽ.
Còn theo đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu cần mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách cần phải đánh giá kỹ lưỡng tác động của chính sách khi mở rộng đối tượng, cân đối nguồn lực của nhà nước trong khi nguồn lực còn có hạn, quan trọng nhất là phải có số liệu thực tế phản ánh tính chính xác, phân tích đầy đủ.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với NHNN kiến nghị lên cấp có thẩm quyền. Tiếp đến là câu chuyện về đánh giá một số tiêu chí mang tính định tính, ví dụ như “có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi”, Bộ sẽ phối hợp với NHNN xem xét có những hướng dẫn cụ thể đối với vấn đề này.
Nêu quan điểm về điều kiện cho vay, đại diện Bộ Tư pháp cho biết, trong quá trình Bộ Tư pháp thẩm định NHNN xây dựng Nghị định này, vấn đề hiểu thế nào về nội dung “có khả năng phục hồi”, Bộ Tư pháp đồng ý với giải pháp kỹ thuật được đưa ra ở đây là Chính phủ giao cho các NHTM đánh giá, vì NHTM là người cho vay sẽ hiểu nhất đối tượng vay và đánh giá chính xác nhất khả năng trả nợ, phục hồi của đối tượng vay.
Thời gian tới, NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ, ngành có liên quan cùng tham gia tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc, lượng hóa được, đảm bảo mục tiêu cuối cùng là áp dụng pháp luật một cách thống nhất và tạo thuận lợi cho các TCTD triển khai trong thực tiễn cũng như tạo thuận lợi cho quá trình thanh tra, kiểm tra sau này, như vậy sẽ đạt được tính khả thi của chương trình hỗ trợ này.
Bà Hà Thị Mỹ Dung – Phó tổng Kiểm toán Nhà nước cho biết, cuối năm, Kiểm toán Nhà nước sẽ có báo cáo về Nghị quyết 43.
“Chúng tôi sẵn sàng tổng hợp đầy đủ ý kiến của NHNN và sẽ báo cáo các cơ quan có thẩm quyền về các khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân để từ đó cùng NHNN đề xuất các giải pháp đối với các cấp có thẩm quyền”, bà Dung cho biết.