Trong báo cáo Góc nhìn Xếp hạng Tín nhiệm mới công bố, các chuyên FiinRatings cho biết Nghị quyết 42/2017/QH14 được ban hành trong bối cảnh nợ xấu tăng mạnh, nhằm trao quyền cho các Tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm, góp phần đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ.
Sau hơn 6 năm triển khai, nghị quyết mang lại hiệu quả nhất định nhưng vẫn tồn tại hạn chế về phạm vi áp dụng và tính thí điểm. Vì vậy, việc luật hóa Nghị quyết 42 vào Luật Các TCTD (sửa đổi 2025) là bước đi tất yếu, đóng vai trò then chốt trong việc hoàn thiện cơ chế xử lý nợ xấu.
Dẫn số liệu từ báo cáo FiinGroup, trong giai đoạn áp dụng Nghị quyết 42 (15/8/2017-31/12/2023), toàn hệ thống đã xử lý khoảng 443.800 tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết 42 (không gồm nợ xấu xử lý bằng dự phòng rủi ro), bình quân 5.800 tỷ đồng/tháng, cao gấp 2,5 lần giai đoạn 2012- 2017 (2.200 tỷ đồng/tháng), cùng với tỷ lệ khách hàng tự trả nợ tăng từ 22,8% lên 36,4%.

(Ảnh: FiinRatings)
Nhiều nút thắt pháp lý vẫn tồn tại
Tuy nhiên, theo FiinGroups, mặc dù việc luật hoá Nghị quyết 42 là một bước đi đúng hướng, góp phần cải thiện khung pháp lý trong xử lý nợ xấu, tuy nhiên chưa tạo ra tác động toàn diện khi nhiều thách thức vẫn tồn tại.
Mặc dù được chuyển hóa từ công cụ tạm thời thành khuôn khổ pháp lý dài hạn, việc luật hóa Nghị quyết 42 vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong thực tiễn triển khai. Theo đánh giá của FiinRatings, rủi ro pháp lý và tranh chấp vẫn là điểm nghẽn lớn nhất trong xử lý nợ xấu.
Các vướng mắc chủ yếu liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm, định giá tài sản, cũng như thẩm quyền xử lý khi có nhiều chủ nợ cùng tham gia.
Trong thực tế, không ít trường hợp ngân hàng gặp khó khăn khi thu giữ tài sản do phải chờ xác minh và hỗ trợ từ cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương. Ngân hàng Nhà nước cũng ghi nhận nhiều hồ sơ xử lý nợ bị đình trệ do chậm trễ trong việc xác minh thông tin khách hàng.
Một thách thức khác là sự thiếu đồng bộ giữa các luật hiện hành. Cơ chế của Nghị quyết 42 – dù đã được luật hóa – vẫn có những điểm mâu thuẫn hoặc chưa được tích hợp đầy đủ với Bộ luật Dân sự, Luật Thi hành án hoặc Luật Tố tụng hình sự. Điều này dẫn đến quy trình thu hồi nợ xấu còn chưa thật sự nhất quán và có thể làm giảm hiệu quả trong quá trình triển khai.
Tác động gián tiếp tới năng lực vốn và sức khỏe hệ thống
Theo FiinRatings, việc luật hóa Nghị quyết 42 cho thấy nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý nhằm xử lý căn cơ các điểm nghẽn về nợ xấu.
Tuy nhiên, FiinRatings cũng nhận định xử lý nợ xấu chỉ là một phần những thách thức hiện nay mà các ngân hàng thương mại phải đối mặt, trong khi đó phần còn lại nằm ở khả năng duy trì tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng, đảm bảo hệ thống có sức chống chịu dài hạn.
Nhóm phân tích đánh giá việc luật hoá Nghị quyết 42 mặc dù không tác động trực tiếp đến tỷ lệ an toàn vốn (CAR), nhưng trong tương lai có thể mang lại những tác động gián tiếp, chủ yếu thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý, từ đó góp phần cải thiện cách nhìn nhận về rủi ro trong cho vay thế chấp.
FiinGroups dẫn chứng ví dụ là việc cải thiện điểm BICRA (Banking Industry Country Risk Assessment) của Việt Nam bởi S&P Global Ratings đã dẫn tới thay đổi trong đánh giá của tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế này về hệ số rủi ro tài sản (asset risk weights) của các ngân hàng, qua đó nâng cao đánh giá về bộ đệm vốn của các ngân hàng này.
Tuy nhiên, FiinRatings cho rằng những tác động gián tiếp này chưa đủ để giải quyết vấn đề hạn chế về bộ đệm vốn (capital constraints) ảnh hưởng đến ngành trong 1-2 năm vừa qua, do không có ảnh hưởng trực tiếp giúp nâng cao bộ đệm vốn chủ sở hữu.

(Ảnh: FiinRatings)
Chuyển dịch sang Basel III – áp lực tăng vốn ngày càng rõ
Để đáp ứng yêu cầu an toàn hệ thống trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh, Ngân hàng Nhà nước mới đây đã ban hành Thông tư 14/2025/TT-NHNN, quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thông tư này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong lộ trình tiệm cận Basel III, với yêu cầu nâng tỷ lệ vốn cấp 1 (CET1) tối thiểu lên khoảng 7% và tỷ lệ an toàn vốn tổng thể (CAR), bao gồm cả bộ đệm, lên khoảng 10,5%.
Theo quan sát của FiinRatings, năm 2024 cho thấy bộ đệm vốn cấp 1 còn mỏng và phân hóa rõ rệt; chỉ một số ít ngân hàng thương mại tư nhân đạt mức vốn cấp 1 cao, trong khi nhiều ngân hàng nhà nước và quy mô nhỏ vẫn đối diện áp lực đáng kể trong việc nâng vốn để đáp ứng Basel III. Từ đó, đặt ra yêu cầu cao hơn đối với năng lực vốn và thanh khoản cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Dữ liệu cho thấy trung vị tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của toàn hệ thống đạt khoảng 12% trong năm 2024 – cao hơn mức tối thiểu 8% theo quy định – song vẫn thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Cụ thể, Campuchia đạt trung vị CAR 23%, Hồng Kông 22%, Thái Lan 21% và Trung Quốc 16%.
"Chênh lệch này không chỉ phản ánh mức độ vốn hiện tại còn khiêm tốn, mà còn cho thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn cần tiếp tục củng cố bộ đệm an toàn để sẵn sàng ứng phó với các biến động tài chính, bên cạnh công tác tăng cường, cải thiện xử lý về nợ xấu", báo cáo FiinRatings cho hay.
Theo FiinRatings đánh giá nhìn chung, trong khi tỷ lệ an toàn vốn phản ánh sức chống chịu dài hạn của hệ thống, thì việc luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu sẽ gián tiếp giúp các ngân hàng củng cố nền tảng vốn, hướng tới sự ổn định bền vững hơn trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.

(Ảnh: FiinRatings)