Tài chính

Giải ngố những ngộ nhận của dân ngoại đạo về “Chi phí dự phòng” của nhà băng: Có phải chỉ những khoản nợ "có vấn đề" mới phải trích lập dự phòng?

Quy định của pháp luật liên quan về chi phí dự phòng trong Ngân hàng hiện nay được quy định trong Thông tư 11/11/2021/TT-NHNN - Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Xoay quanh việc trích lập dự phòng tại các Ngân hàng, còn tồn tại những "ngộ nhận" phổ biến như sau đây:

Ngộ nhận 1: Chỉ những khoản nợ "có vấn đề" mới phải trích lập dự phòng?

Dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.

Theo quy định, tất cả các khoản cho vay khi giải ngân mới đều phải trích lập dự phòng chung để dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra nhưng chưa xác định được khi trích lập dự phòng cụ thể. Điều 13, Thông tư 11 quy định về "Mức trích lập dự phòng chung" như sau:

Số tiền dự phòng chung phải trích được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trừ các khoản sau đây:

(i) Tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật và tiền gửi tại tổ chức tín dụng ở nước ngoài.

(ii) Khoản cho vay, mua có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

(iii) Khoản mua kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành trong nước.

(iiii) Khoản mua bán lại trái phiếu Chính phủ theo quy định tại điểm l khoản 1 Điều 1 Thông tư này.

Điều này có nghĩa là khi cho vay ra 100 đồng, Ngân hàng sẽ phải trích lập 0,75 đồng chi phí dự phòng chung. Đây chính là lý do trong chiến lược kinh doanh, các Nhà băng thường không khuyến khích tăng trưởng dư nợ vào tháng cuối năm vì chi phí tăng trong khi lãi dự thu thấp, về mặt hạch toán có thể gây lỗ tạm thời với những khoản giải ngân "năm cùng tháng tận" này.

Góc Giải Oan những ngộ nhận thường gặp về Chi phí dự phòng ở các nhà băng - Ảnh 2.

Hình ảnh minh hoạ: Internet

Ngộ nhận 2: Khoản vay có nhóm nợ càng cao (nợ càng xấu) thì chi phí trích lập dự phòng càng lớn?

Ngoài chi phí dự phòng chung, với mỗi khoản nợ được phân nhóm (từ nhóm 1 đến nhóm 5) sẽ được trích lập dự phòng cụ thể với tỷ lệ như sau:

Nợ nhóm 1: 0%; Nợ nhóm 2: 5%; Nợ nhóm 3: 20%; Nợ nhóm 4: 50%; Nợ nhóm 5: 100%.

Đọc đến đây, không ít người sẽ cho rằng, với cùng 1 giá trị nợ quá hạn, nhóm nợ càng cao (nợ càng trễ hạn lâu) thì chi phí trích lập dự phòng cho khoản vay đó càng lớn. Sự hiểu lầm này không chỉ người ngoài ngành mà ngay cả nhiều nhân viên Ngân hàng cũng mắc phải.

Hãy xem Thông tư 11 quy định như thế nào về vấn đề này:

Góc Giải Oan những ngộ nhận thường gặp về Chi phí dự phòng ở các nhà băng - Ảnh 3.

Như vậy, ngoài tỷ lệ trích lập dự phòng luỹ tiến theo nhóm nợ thì yếu tố quyết định chính đến mức trích lập dự phòng cụ thể là Giá trị khấu trừ của TSBĐ. Giá trị khấu trừ của TSBĐ được tính bằng giá trị TSBĐ (theo định giá gần nhất) nhân với tỷ lệ khấu trừ (tỷ lệ khấu trừ của từng loại TSBĐ được quy định dựa theo tính chất, mức độ thanh khoản của TS được quy định trong mục 4, 5, 6 của điều 12 Thông tư 11. Với BĐS tỷ lệ khấu trừ là 50%).

Nói đơn giản, một BĐS nếu được ngân hàng định giá 7 tỷ đồng thì giá trị khấu trừ tương ứng sẽ là 3,5 tỷ đồng. Trên BĐS này, Ngân hàng có thể cho vay lên đến 70%, 80%... giá trị tài sản theo định giá (7 tỷ đồng) tuỳ đánh giá năng lực từng khách hàng, nhưng khi khoản cấp tín dụng chuyển nợ quá hạn thì lúc này việc cho vay tỷ lệ cao mới thể hiện sự "tốn kém" trong chi phí dự phòng.

Trên lý thuyết với một khoản nợ xấu nhóm 5, mức trích lập dự phòng có thể về 0 nếu giá trị khấu trừ của TSBĐ lớn hơn số dư nợ gốc.

Chúng ta có thể xem xét ví dụ sau để dễ hình dung về trích lập dự phòng cụ thể:

Ngân hàng có 2 khoản vay thế chấp BĐS đã chuyển sang nhóm 3 và 4, dư nợ 2 khoản vay đều là 10 tỷ đồng; TSBĐ 2 khoản vay lần lượt là 14 và 18 tỷ đồng.

Chi phí dự phòng phải trích với khoản nợ nhóm 3 là: (10 tỷ - 14 tỷ x 50% (tỷ lệ khấu trừ với TSBĐ là BĐS)) x 20% = 600 triệu đồng

Chi phí dự phòng phải trích với khoản nợ nhóm 4 là : (10 tỷ - 18 tỷ x 50% (tỷ lệ khấu trừ với TSBĐ là BĐS)) x 50% = 500 triệu đồng

Kết quả của việc tính toán là cùng 1 dư nợ, nợ nhóm 3 trích lập dự phòng nhiều hơn nợ nhóm 4. Điều này xuất phát từ bản chất, nợ nhóm 4 "xấu", quá hạn dai dẳng hơn nhưng lại có khả năng thu hồi khoản vay từ việc xử lý TSBĐ cao hơn nên chi phí dự phòng sẽ thấp hơn.

Như vậy, khi nhìn vào bức tranh chi phí dự phòng của một ngân hàng chỉ nhắc đến tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn thì không đủ mà còn phải nhắc đến những yếu tố như Tài sản bảo đảm, tỷ lệ cho vay trên TSBĐ.

Các tin khác

Giá vàng tiếp tục tăng

Sáng nay (27/4), giá vàng trong nước tiếp tục tăng lên mốc 121 triệu đồng/lượng với vàng miếng SJC và 120 triệu đồng/lượng với vàng nhẫn.

Chứng khoán lao dốc

Áp lực bán ngày càng mạnh khiến VN-Index mất hơn 10 điểm, nối dài mạch giảm phiên thứ tư liên tiếp và tiệm cận vùng tâm lý 1.300 điểm.

Nông nghiệp, bảo hiểm “chắp cánh” thương hiệu LienVietPostBank

Năm 2021, lợi nhuận trước thuế của LienVietPostBank đạt trên 3.600 tỷ đồng, mức cao kỷ lục trong 13 năm hoạt động của ngân hàng. Đạt được kết quả đó là sự tăng trưởng ấn tượng của tín dụng bán lẻ và sự bứt phá của bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Thành công của 2 lĩnh vực này cho thấy hướng đi đúng đắn mà ngân hàng đã lựa chọn.

Thu phí ô tô vào trung tâm TPHCM 40.000 đồng/lượt: Có khả thi?

TPHCM đang quản lý hơn 8,4 triệu phương tiện, gồm khoảng 819.000 ô tô và hơn 7,6 triệu xe máy; bình quân mỗi ngày thành phố TPHCM có 79 ô tô và 309 xe máy đăng ký mới. Sở GTVT TPHCM vừa có văn bản gửi UBND TPHCM đề xuất lập dự án “Thu phí ô tô lưu thông vào trong khu vực trung tâm thành phố”.

Đầu tư căn hộ cho thuê thoái trào

TP HCMNhiều nhà đầu tư gần đây đã xả hàng căn hộ cho thuê vì ế khách, vốn cao, giá thuê giảm để chuyển sang kênh sinh lời khác.

[Tiền đẻ ra tiền] 9x có tỷ suất lợi nhuận vượt trội thị trường và thành quả của việc khổ luyện phân tích báo cáo tài chính

Thị trường chứng khoán về dài hạn là một uptrend dài, chẳng cần bạn phải cưỡi trên mọi con sóng chỉ cần tận dụng tốt một vài cơ hội là đã đủ để vượt trội tăng tài sản, vươn xa rồi. Từ đầu 2022 đến nay, một quỹ nhỏ cá nhân do tôi quản lý đạt lợi nhuận 23,5% trong lúc Vnindex giảm 2,5%.

Số hoá các ngân hàng Việt đang ở mức độ nào?

Các ngân hàng trong khoảng vài năm trở lại đây đã đầu tư không ít cho ngân hàng số. Thế nhưng, quy trình chuyển đổi số, số hóa các hoạt động trong ngân hàng như thế nào và khi nào chuyển đổi số ngân hàng xong thì vẫn là một dấu hỏi lớn.