Giá vàng tăng giảm bất thường
Sau khi tăng mạnh vào đầu ngày 16.5 thêm 2,8 triệu đồng mỗi lượng, giá vàng miếng SJC quay đầu giảm 2,3 triệu đồng. Chiều 16.5, các công ty kinh doanh vàng như SJC, Bảo Tín Minh Châu, Phú Quý… mua vào vàng miếng SJC với giá 115,7 triệu đồng/lượng, bán ra 118,7 triệu đồng/lượng. Tương tự, giá vàng nhẫn cũng giảm từ 500.000 - 1 triệu đồng mỗi lượng so với đầu ngày. Công ty SJC mua vào còn 111,7 triệu đồng, bán ra 114,8 triệu đồng. Công ty Bảo Tín Minh Châu mua vào 114 triệu đồng, bán ra 117 triệu đồng. Công ty Phú Quý mua vào 112 triệu đồng, bán ra 115 triệu đồng…

Giá vàng tăng giảm mạnh trong ngày 16.5
ẢNH: Ngọc Thắng
Sự biến động tăng giảm khá đột ngột của giá vàng hôm qua khiến nhiều người mua vàng trong ngày lỗ nặng. Chị Nguyễn Anh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM) kể chị mua 6 chỉ vàng, trong đó có 2 miếng vàng SJC loại 2 chỉ và 2 nhẫn. Loại vàng miếng SJC 2 chỉ khá hiếm nên giá tiệm vàng bán ra là 120,5 triệu đồng/lượng, còn giá vàng nhẫn 3 số 9 là 115 triệu đồng/lượng. Đến chiều cùng ngày, giá vàng giảm mạnh, chiều mua vào chỉ còn 116 triệu đồng/lượng, với 4 chỉ vàng miếng, chị đã lỗ ngay 1,8 triệu đồng. Tương tự, giá mua vàng nhẫn xuống 112 triệu đồng khiến chị thâm hụt 600.000 đồng. Tổng cộng mức lỗ trong ngày với số vàng chị mua là 4 triệu đồng.
"Giá vàng có tăng có giảm. Hy vọng sau mỗi đợt giảm, giá lại đi lên", chị Nguyễn Anh nói. Trong khi đó, giá vàng giảm liên tục những phiên gần đây khiến những người mua trong khoảng 3 tuần trở lại đang chịu mức lỗ nặng. Cụ thể, so với ngày 22.4 khi giá vàng miếng SJC đạt mức kỷ lục 124 triệu đồng/lượng, những người mua vàng hiện nay đã chịu mức lỗ 8 triệu đồng/lượng, riêng những người mua vàng nhẫn có mức lỗ lên đến 10 triệu đồng/lượng.
Giá vàng trong nước giảm mạnh trước sự trượt giảm không phanh của giá kim loại quý thế giới. Sau khi tăng lên mức 3.253 USD/ounce, giá vàng đột ngột giảm mạnh xuống 3.194 USD/ounce rồi phục hồi lại mức 3.212 USD/ounce. Giá vàng tăng lên trên 3.200 USD/ounce sau khi tâm lý của người tiêu dùng Mỹ suy giảm và lạm phát tiếp tục tăng. Đặc biệt, phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell tại Hội nghị nghiên cứu Thomas Laubach vừa qua rằng lãi suất dài hạn có khả năng sẽ vẫn ở mức cao khi các điều kiện kinh tế phát triển và chính sách điều chỉnh đã tác động mạnh đến giá vàng.
Theo Bộ phận Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng (NH) UOB (Singapore), dù thời điểm cắt giảm lãi suất của Fed đã được điều chỉnh lùi lại nhưng UOB này dự báo Fed sẽ thực hiện 3 đợt cắt giảm lãi suất, mỗi đợt 25 điểm cơ bản trong năm nay. Thời điểm cập nhật cho 3 đợt cắt giảm này là tại các cuộc họp Ủy ban thị trường Mở (FOMC) vào tháng 9, tháng 10 và tháng 12, qua đó đưa lãi suất chính sách từ 4,5% xuống còn 3,75% vào cuối
năm 2025. Về thị trường vàng, UOB nhận định nhu cầu trú ẩn an toàn tiếp tục được duy trì, cùng với việc các NH trung ương đều đặn tăng tỷ trọng nắm giữ vàng, kỳ vọng USD suy yếu và khả năng dòng vốn quay lại các quỹ ETF vàng tại Mỹ. Tất cả những yếu tố này tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho giá vàng. Do đó, UOB giữ nguyên quan điểm tích cực và nâng dự báo giá vàng lên mức 3.600 USD/ounce vào quý 1/2026.
Lãi suất tiết kiệm ở mức thấp
Cùng chiều với giá vàng, lãi suất tiết kiệm trong nước vẫn tiếp tục ở mức thấp. Trong thời gian từ 14.4 - 9.5, đã có 7 NH giảm lãi suất tiết kiệm. Giảm mạnh nhất là VCBNeo với 0,3% các kỳ hạn từ 6 - 36 tháng tại quầy xuống mức 5,2 - 5,45%/năm, kỳ hạn 6 - 60 tháng online xuống mức 5,4 - 5,55%/năm. Hiện mức cao nhất ở NH này là 5,55%/năm kỳ hạn 13 - 60 tháng đối với tiền gửi online. Các NH còn lại như Indovina, VietABank, OCB… có mức giảm nhẹ từ 0,1 - 0,2%/năm. Điểm đặc biệt ở giai đoạn này là lãi suất trong hệ thống không cùng chiều với nhau.
Nếu các nhà băng nói trên giảm thì một số lại rục rịch tăng lãi suất. Chẳng hạn, BacABank tăng mạnh lãi suất với 0,4% kỳ hạn 1 - 9 tháng lên mức 4,1 - 5,65%/năm; tăng 0,2 - 0,3% kỳ hạn 12 - 36 tháng lên mức 5,9 - 6,2%/năm. Nhìn chung, mức lãi suất tiết kiệm của các NH đang ở mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Hiện nhóm Big4 (Vietcombank, VietinBank, BIDV, Agribank) huy động lãi thấp nhất thị trường, ở mức từ 1,6 - 4,8%/năm.

Lãi suất tiết kiệm hiện ở mức thấp
ẢNH: Ngọc Thắng
Lãi suất trên thị trường liên NH những ngày qua cũng có xu hướng giảm. Ngày 14.5, lãi suất giao dịch giữa các NH giảm từ 0,2 - 0,5%/năm so với đầu tháng. Đối với lãi suất qua đêm còn 3,93%/năm, 1 tuần còn 4,08%/năm, 2 tuần còn 4,25%/năm… Trên thị trường mở, NH Nhà nước (NHNN) liên tục bơm tiền ra và khối lượng gần đây giảm so với trước. Ngày 16.5, có 1 thành viên trúng thầu khối lượng 363,48 tỉ đồng ở kỳ hạn 7 ngày, lãi suất 4%/năm. Những thông tin trên cho thấy thanh khoản NH hiện khá tốt và các nhà băng huy động tăng trưởng tốt trong quý 1/2025.
NHNN thừa nhận mặt bằng lãi suất có nhiều sức ép trong thời gian tới. Nguyên nhân do lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm sâu thời gian qua; nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng dự kiến gia tăng mạnh mẽ trong thời gian tới để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025. Trong khi đó, huy động vốn toàn hệ thống tổ chức tín dụng có thể bị ảnh hưởng và cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác như bất động sản, thị trường chứng khoán; cũng như mặt bằng lãi suất thế giới có xu hướng giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao và thị trường tài chính toàn cầu khó đoán định sau khi Mỹ tuyên bố chính sách thuế đối ứng.
Dù vậy, nhà điều hành khẳng định sẽ tiếp tục duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp để định hướng thị trường giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các NH tiết giảm chi phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và các giải pháp khác để phấn đấu hạ lãi suất cho vay; ổn định lãi suất tiền gửi, giảm lãi suất cho vay để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Kết quả là mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm. Thống kê đến ngày 10.4, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các NH thương mại ở mức 6,34%/năm, giảm 0,6%/năm so với cuối năm 2024.
Chính sách tiền tệ linh hoạt
NHNN cho biết sẽ tiếp tục bám sát diễn biến thị trường, tình hình kinh tế trong và ngoài nước để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác góp phần ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.