Macro Insight là series chương trình cập nhật các diễn biến kinh tế - tài chính quan trọng, với góc nhìn chuyên sâu từ dữ liệu khách quan, được phân tích bởi những chuyên gia đầu ngành. Chương trình do WiGroup và VietnamBiz phối hợp sản xuất, phát sóng định kỳ trên kênh Youtube Kinh tế - Tài chính.
Sau những lo ngại vào tháng 4, bức tranh kinh tế Việt Nam trong tháng 5 đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực hơn: sản xuất công nghiệp khởi sắc, xuất nhập khẩu tăng trưởng trở lại và hoạt động đầu tư được cải thiện. Song song đó, dữ liệu kinh tế Mỹ lại phát đi những tín hiệu trái chiều khi lạm phát còn dai dẳng, thị trường lao động hạ nhiệt, đặt Fed vào thế giằng co giữa ổn định tăng trưởng và kiềm chế giá cả.
Ở góc độ quốc tế, các diễn biến mới trong đàm phán thuế quan Mỹ - Việt đang thu hút sự chú ý. Thị trường đặt cược ngày càng cao rằng một thoả thuận thương mại sẽ được ký kết sớm, trong khi những điều kiện "khó nhằn" từ phía Mỹ tiếp tục là ẩn số. Liệu kịch bản nào sẽ trở thành hiện thực và tác động ra sao đến kinh tế Việt Nam?
Nội dung chính:
- Điểm nhấn kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5.
- Kinh tế Mỹ, chính sách của Fed và tác động đến tỷ giá USD/VND.
- Cập nhật đàm phán thuế quan Việt – Mỹ.
- Triển vọng kinh tế và cơ hội đầu tư.

Đồng hành cùng chương trình Data Talk |Macro Insight là bà Nguyễn Vân Anh - BTV Vietnambiz (host của chương trình), cùng hai diễn giả:
- Ông Trần Ngọc Báu – CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup. Với nhiều năm nghiên cứu và phân tích dữ liệu kinh tế, ông có kinh nghiệm sâu rộng trong việc đánh giá xu hướng vĩ mô, chính sách tiền tệ và thị trường tài chính.
- Ông Nguyễn Hoàng Linh – Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank VCBF. Với hơn 12 năm kinh nghiệm tại một trong những quỹ đầu tư có hiệu suất vượt trội trong nhiều năm qua, ông Linh sẽ mang đến góc nhìn thực tiễn về bối cảnh vĩ mô và gợi ý các chiến lược đầu tư.
Vĩ mô tháng 5 đã trở lại xu hướng thông thường

Ông Trần Ngọc Báu – CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup. (Ảnh: VNB).
Mở đầu chương trình, Ông Trần Ngọc Báu – CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup đã phân tích về những yếu tố vĩ mô trong tháng 5.
Theo ông Báu, số liệu vĩ mô tháng 5 cho thấy nền kinh tế đã trở về quán tính thông thường, sau "cú giật" ở một số ngành trong tháng 4. Trong đó, ba khu vực tác động chính vào nền kinh tế là: Khu vực sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ; Khu vực đầu tư; Thị trường hệ thống ngân hàng, tiền tệ.
Đối với khu vực sản xuất, chúng ta thấy được rằng sau cú giật về PMI khá bất ngờ ở mức 45 điểm, tức là tâm lý của nhà sản xuất giảm rất mạnh trong tháng 4 thì tháng 5 này, tâm lý đã trở về trạng thái cân bằng hơn, với chỉ số PMI đạt 49,8 điểm, tức là tâm lý vẫn thận trọng. Nhìn vào xu hướng chung (không tính tháng 4), có thể thấy rằng tâm lý thận trọng này đã diễn ra từ khoảng cuối năm 2024 và đến thời điểm hiện tại vẫn quanh mức 50. Có nghĩa là sản xuất vẫn ổn nhưng tâm lý của nhà sản xuất vẫn thận trọng.
Về chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP), trước đây IIP và PMI trước giờ luôn luôn cùng một xu hướng nhưng thời gian vừa rồi, một số tín hiệu cho thấy, IIP dường như đang lệch pha với PMI.
Nhưng theo quan điểm của tôi, bản thân hai chỉ số này vẫn đi rất tương đồng, thể hiện dấu hiệu phục hồi từ khoảng tháng 9 - 10 của năm 2024 đến giờ thì sản xuất của chúng ta phục hồi.
Mức tăng trưởng sản xuất trung bình chỉ khoảng 9% như hiện nay và tâm lý thận trọng của các nhà sản xuất, rất khó đạt được mục tiêu của Chính phủ đề ra về tăng trưởng kinh tế. Bởi vì muốn tăng trưởng kinh tế ở mức 7,5 – 8%, thì khu vực công nghiệp phải tăng trưởng khoảng 11 – 12%. Hiện tại, chúng ta thấy chỉ đạt khoảng 8,5 – 9,5%, nên thách thức của khu vực sản xuất công nghiệp với mục tiêu đề ra vẫn còn.
Về tiêu dùng và dịch vụ, tổng mức bán hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đã có sự tăng trưởng so với từ khoảng quý III/ 2024, tức là xu hướng tiêu dùng đã có sự phục hồi nhưng khá nhiễu động. Nếu nhìn vào quán tính thông thường của chỉ số này, mức tăng trưởng chỉ ở khoảng 9,5 - 10%. Điều này có nghĩa là tiêu dùng đang tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng trong những tháng gần đây đã có dấu hiệu chậm lại.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng trung bình trong cả 6 tháng vừa qua cũng chỉ ở mức 9,5 - 10%, thấp hơn khá nhiều so với kỳ vọng tăng trưởng tiêu dùng ở mức 12 – 13% để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy tiêu dùng nội địa có tăng trưởng, nhưng chưa thực sự thuyết phục về tính ổn định và xung lực của tăng trưởng vẫn còn yếu.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong nước hiện đang được dẫn dắt bởi hai khu vực là dịch vụ lưu trú – ăn uống và du lịch lữ hành. Còn lại, bán lẻ hàng hóa trong nước gần như đi ngang từ tháng 10 năm ngoái đến nay.
Cũng cần lưu ý rằng liệu đà tăng trưởng của du lịch, lưu trú – ăn uống có thể kéo dài hay không? Mặt khác, nếu nhìn vào lượng khách quốc tế đến Việt Nam, trong hai tháng gần đây chỉ tăng trưởng khoảng 10%, thấp hơn nhiều so với mức thông thường là 20 – 25%. Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế đến Việt Nam đang chậm lại, báo hiệu rằng trong tương lai, sự tăng trưởng dịch vụ lưu trú – ăn uống và du lịch lữ hành có thể không còn tích cực như trong 5 – 6 tháng qua.
Về xuất khẩu, 5 tháng đầu năm nay nhìn chung ở mức 15 – 16, ở mức khá của Việt Nam. Tuy nhiên, với nhịp tăng trưởng tốt của xuất nhập khẩu hiện nay, có hai vấn đề cần quan tâm.
Thứ nhất, trong ba tháng gần đây, động lực dẫn dắt chủ yếu đến từ khu vực FDI. Đặc biệt, trong tháng 5 vừa qua, xuất khẩu trong nước nhìn chung khá chậm và tăng trưởng âm so với tháng 5/2024 nhưng xuất khẩu ở khu vực FDI lại tăng khá mạnh, dẫn dắt xuất khẩu tổng thể đều tăng. Đó là rủi ro khi những số liệu gần đây cho thấy rằng chúng ta lại phụ thuộc hơn nữa vào trong khu vực FDI.
Mặc dù xuất khẩu vẫn giữ nhịp tăng trưởng tốt nhưng thặng dư thương mại đang giảm. Điều này sẽ gây áp lực lên tỷ giá và dòng vốn dịch chuyển ở trong nước vì xuất nhập khẩu hàng hoá vẫn là một dòng vốn khá lớn trong cán cân tổng thể của Việt Nam và khi nó yếu đi thì cũng sẽ gây áp lực lên câu chuyện về tỷ giá và thanh khoản của hệ thống.
Về đầu tư, bao gồm khu vực công, đầu tư khu vực FDI và đầu tư khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Một tín hiệu khá mừng là 5 tháng đầu năm nay, giải ngân đầu tư công của chúng ta tăng trưởng khoảng 17,5%. So với mức tăng trưởng trung bình chỉ 1,8% của năm ngoài thì năm nay thực sự là đầu tư công đã được mở khoá, về mức trung bình cao trong mức tăng trưởng đầu tư công của Việt Nam trong 20 năm qua. Tuy nhiên, so với kế hoạch là tăng trưởng đầu tư công cả năm phải ở mức 28 - 30% thì con số 17% nhìn chung vẫn chưa đạt tham vọng và mới chỉ đạt khoảng 24,3% kế hoạch, tức là bằng 1/4.
Khu vực đầu tư công đã được mở khoá nhưng chưa phải là quá mạnh so với những điều chúng ta đang kỳ vọng, còn lại đầu tư tư nhân vẫn còn yếu, FDI khá bất định.
Một điều khá bất ngờ trong bối cảnh mà nhiều người cho rằng thông số về FDI sẽ gặp lo ngại vì ẩn số về thuế của Việt Nam vẫn rất lớn nhưng FDI tăng trưởng vẫn rất mạnh. Nếu tính luỹ kế 5 tháng đầu năm, FDI tăng trưởng 66% so với cùng kỳ, một con số kỷ lục mà phải đến 6 - 7 năm nay chúng ta mới gặp lại được.
Nhưng khi bóc tách sâu vào thông số FDI đăng ký này, có thể thấy được rằng chủ yếu là họ thay đổi vốn đã đăng ký trước đó chứ không phải đăng ký mới. Có nghĩa dòng vốn đăng ký mới khu vực FDI không hề tăng, thậm chí giảm nhưng những đơn vị đã đăng ký đầu tư tại Việt Nam thì họ lại tăng lượng vốn đầu tư.
Còn về số thực hiện, vẫn ở mức trung bình cao, khoảng 7,5 - 8%, cũng tương đương năm 2024. Nếu xét trong 10 - 15 năm vừa qua, mức tăng trưởng FDI giải ngân ở mức này là mức trung bình, ổn định. Vậy cho nên thực ra FDI của chúng ta cũng chưa bị ảnh hưởng quá nhiều bởi câu chuyện liên quan đến thuế quan, dòng vốn giải ngân vẫn tương đối ổn, chưa bị đóng băng. Thứ hai dòng vốn đăng ký cũng có sự bứt phá mạnh nhưng bứt phá mạnh ở việc họ đăng ký mở rộng dự án chứ không phải đăng ký mới.
Câu chuyện đầu tư vẫn tích cực và mọi thứ vẫn đang đi tương đối ổn, thấp hơn kế hoạch một chút nhưng cơ bản không đáng lo ngại như những gì ta đang lo ngại trước khi thuế quan bắt đầu triển khai.
Ba áp lực lớn lên tỷ giá VND/USD
Đối với tỷ giá, mặc dù chỉ số DXY có xu hướng giảm và dao động quanh ngưỡng 99 điểm, song tỷ giá VND/USD vẫn biến động theo hướng mất giá, đi ngược lại xu thế quốc tế. Tỷ giá tự do đang hạ nhiệt, thì tỷ giá chính thức lại khá "căng cứng", hiện tượng này phản ánh những áp lực đặc thù trong nước, không còn tuân theo các quy luật truyền thống trước đây, ông Trần Ngọc Báu nhận định.
Theo thông lệ, sức mạnh của đồng VND thường chịu ảnh hưởng từ sức mạnh của đồng CNY và đồng USD (qua chỉ số DXY). Tuy nhiên, trong khoảng ba tháng gần đây, quy luật này đã không còn vận hành như trước. Trong khi đồng USD giảm mạnh và đồng CNY tăng giá so với USD, thì riêng đồng VND lại mất giá.
Cụ thể, từ đầu năm đến nay, đồng USD đã tăng giá khoảng 2,6–2,7% so với VND, dù chỉ số DXY giảm đến 10%. Điều này cho thấy diễn biến tỷ giá không còn đơn thuần do các yếu tố thị trường quốc tế, mà phản ánh vấn đề nội tại của nền kinh tế Việt Nam.
Chỉ ra ba áp lực lớn đang khiến tỷ giá VND/USD chịu biến động khác thường, ông Báu cho biết, thứ nhất, cán cân thương mại giảm sút, thặng dư hàng hóa thu hẹp đã làm suy yếu nguồn cung USD vào trong nước. Thứ hai, cả chính phủ và khối tư nhân đang đồng thời đẩy mạnh hoạt động trả nợ ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua USD ngày càng tăng.
Về phía tư nhân, do chi phí vay quốc tế cao (gồm lãi suất khoảng 8–9%, cộng thêm rủi ro tỷ giá 4–5%), tổng chi phí vay ngoại hiện ở mức 12–13%. Trong khi đó, lãi suất trong nước chỉ khoảng 7–8%, khiến các doanh nghiệp không còn mặn mà vay nước ngoài. Khi đến hạn, họ có xu hướng vay trong nước để đảo nợ quốc tế, dẫn tới nhu cầu ngoại tệ rất lớn.
Ông Báu ước tính, riêng khối tư nhân, mỗi năm cần khoảng 4–5 tỷ USD để phục vụ nghĩa vụ trả nợ ròng, trong khi trước năm 2021, khối này từng là bên vay ròng từ thị trường quốc tế với dòng vốn vào khoảng 3–4 tỷ USD mỗi năm. Hiện nay, thay vì rót vốn vào, mỗi quý dòng tiền lại chảy ra khoảng 1 tỷ USD – tương đương 4 tỷ USD/năm.
Về phía chính phủ, chiến lược vay nợ cũng đã thay đổi. Trước năm 2010, chính phủ là bên vay ròng USD với tổng dư nợ lên đến 1,4 triệu tỷ đồng (bao gồm cả vay được bảo lãnh). Tuy nhiên, chỉ trong ba năm gần đây, tổng dư nợ đã giảm còn khoảng 1,1 triệu tỷ đồng – tức trả nợ ròng hơn 10 tỷ USD trong giai đoạn này.
Để đáp ứng nghĩa vụ trả nợ, Kho bạc Nhà nước cũng phải mua USD từ hệ thống ngân hàng thương mại, với quy mô mỗi năm khoảng 3–4 tỷ USD.
Như vậy, cả khối tư nhân và khu vực công đang cần tổng cộng khoảng 6–8 tỷ USD/năm chỉ để trả nợ ròng. Điều này đảo ngược hoàn toàn so với giai đoạn trước 2021, khi Việt Nam thường xuyên đón nhận dòng USD ròng từ cả hai khu vực.
Từ những phân tích trên, ông Báu cho rằng áp lực tỷ giá hiện nay không còn xuất phát từ yếu tố quốc tế như DXY hay CNY, mà đến từ sự thay đổi trong chiến lược cấu trúc vốn và nghĩa vụ trả nợ ngoại tệ trong nước. Đây là một áp lực mang tính dài hạn, không thể giải quyết trong thời gian ngắn.
“DXY sẽ vận hành theo hướng của DXY, CNY vận hành theo hướng của CNY, còn Việt Nam sẽ có diễn biến tỷ giá theo hướng riêng của mình”, ông Báu nhấn mạnh.
Kinh tế 3 - 6 tháng tới sẽ tương đối tích cực
Phân tích về triển vọng nền kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn, chuyên gia Trần Ngọc Báu cho biết, nhìn tổng thể, tăng trưởng kinh tế trong 3–6 tháng tới sẽ ghi nhận những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng mà Chính phủ đề ra cho năm nay, cũng như trong giai đoạn 2–3 năm tới, vẫn sẽ là một hành trình đầy thách thức.
Một điểm đáng lưu ý là nội tại nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào thị trường bất động sản. Do đó, nếu lĩnh vực này chưa được “mở khóa” hoàn toàn và tiếp tục khó khăn như hiện tại, thì dù có tăng trưởng, phần lớn động lực vẫn sẽ đến từ khối FDI, trong khi khu vực kinh tế trong nước có thể vẫn chưa cảm nhận rõ sự phục hồi.
Theo ông Báu, điều này sẽ dẫn tới độ “lệch pha” nhất định giữa số liệu tăng trưởng và cảm nhận thực tế của người dân, doanh nghiệp về sức khỏe nền kinh tế.
Đối với thị trường tiền tệ, trong bối cảnh tỷ giá chịu nhiều áp lực, tiến độ giải ngân đầu tư công đang diễn ra và chính sách tiền tệ của Mỹ đang trong trạng thái “án binh bất động”, ông Báu đánh giá thanh khoản của hệ thống ngân hàng sẽ duy trì ở mức trung bình – tức là không quá dồi dào để có thể thực hiện chính sách nới lỏng. Do đó, lãi suất huy động sẽ khó có dư địa để giảm, thậm chí có thể đi ngang hoặc tăng nhẹ tại một số khu vực.
Dù có sự hỗ trợ từ phía đầu tư công, nhưng thanh khoản chung trong nền kinh tế vẫn không thực sự tích cực do một phần dòng tiền đang chảy ra nước ngoài, gây suy giảm tổng lượng tiền trong hệ thống.
Với thị trường chứng khoán, ông Báu cho rằng thị trường sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong 3–6 tháng tới. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu và FDI, trong khi chính sách tiền tệ chưa thể nới lỏng. Điều này khiến khả năng xuất hiện động lực mạnh để thị trường cổ phiếu bứt phá là rất hạn chế.
Ông cũng nhấn mạnh, đà tăng của thị trường thời gian qua chủ yếu đến từ các nhóm cổ phiếu riêng lẻ như nhóm liên quan đến Vingroup hoặc các mã mang tính đầu cơ. Hiện tại, dòng tiền dẫn dắt thị trường mới chưa xuất hiện rõ ràng. Dù chưa có yếu tố tiêu cực rõ rệt, nhưng để thị trường bước vào chu kỳ tăng trưởng mạnh vẫn là điều khó đạt được trong giai đoạn ngắn hạn.
Mặt bằng lãi suất trung – dài hạn sẽ chịu áp lực tăng

Ông Nguyễn Hoàng Linh – Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank VCBF. (Ảnh: VNB).
Ở góc độ khác, chuyên gia Nguyễn Hoàng Linh cũng cho rằng mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% năm nay là rất thách thức, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế phụ thuộc mạnh vào xuất khẩu và sản xuất – hai lĩnh vực vẫn chứa nhiều ẩn số. Những tác động từ chính sách thuế quan toàn cầu có thể sẽ chưa được phản ánh đầy đủ trong các quý tới.
Ông Linh nhấn mạnh, đầu tư là một trụ cột quan trọng để bù đắp bất ổn từ bên ngoài. Tuy nhiên, không thể kỳ vọng đầu tư có thể vượt qua được những ảnh hưởng tiêu cực nếu xuất khẩu chịu sức ép lớn hơn nữa. Trong cơ cấu đầu tư, khu vực tư nhân – chiếm gần 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội – giữ vai trò then chốt, trong đó bất động sản là lĩnh vực dẫn dắt.
Dù thị trường bất động sản đang có chuyển biến tích cực nhờ tháo gỡ pháp lý, thể chế, nhưng vẫn tồn tại khoảng cách lớn giữa cung và cầu. Phần lớn nguồn cung hiện tập trung vào phân khúc cao cấp, trong khi nhu cầu thực lại nghiêng về nhà ở phân khúc trung bình. Giá bất động sản tăng nhanh hơn mức tăng thu nhập khiến khả năng tiếp cận nhà ở của người dân ngày càng khó khăn, làm thị trường phát triển thiếu bền vững.
Dù vậy, ông Linh cũng ghi nhận điểm sáng ở khu vực đầu tư tư nhân vào hạ tầng – đặc biệt là năng lượng hoặc các dự án lớn như đường sắt cao tốc Bắc – Nam – đang có sự tham gia ngày càng rõ nét của khu vực tư nhân. Sự linh hoạt của khối tư nhân sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng trung và dài hạn.
Về thị trường tiền tệ, ông Linh cho rằng hiện tại thanh khoản VND ở kỳ hạn ngắn vẫn dồi dào, hỗ trợ lãi suất cho vay trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, ông lưu ý đến rủi ro mất cân đối trong huy động vốn trung – dài hạn. Các nguồn vốn này chủ yếu đến từ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ngắn (12–13 tháng), trong khi các dự án đầu tư cần dòng tiền kéo dài từ 3–5 năm, thậm chí lên tới 30 năm.
Chính vì vậy, ông Linh dự báo, mặt bằng lãi suất trung – dài hạn sẽ chịu áp lực tăng. Các ngân hàng sẽ cần đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng phát hành trái phiếu phục vụ nhu cầu đầu tư, kéo theo mặt bằng lãi suất tăng theo.
Về triển vọng thị trường chứng khoán, ông Linh nhận định các nhóm cổ phiếu đã tăng mạnh trong thời gian qua chủ yếu nhờ kỳ vọng, thậm chí đi trước kỳ vọng. Do đó, thị trường có khả năng sẽ dao động quanh vùng giá hiện tại và xuất hiện phân hóa rõ nét hơn.
Một số nhóm ngành vẫn có thể ghi nhận tăng trưởng tích cực như vật liệu xây dựng, xây lắp – vốn hưởng lợi từ làn sóng đầu tư công. Nhóm ngân hàng cũng được đánh giá tích cực trong bối cảnh định giá vẫn ở mức hợp lý và nhu cầu vốn của nền kinh tế tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên, ông Linh cũng khuyến nghị nhà đầu tư cần theo dõi sát chất lượng tài sản của từng ngân hàng. Kết quả kinh doanh quý I cho thấy nợ xấu đang có xu hướng gia tăng tại một số nhà băng, trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu lại giảm. Đây là những tín hiệu cần được lưu ý trong bối cảnh chu kỳ tín dụng mới có thể hình thành trong thời gian tới.
Chương trình được phát sóng trực tuyến tại:
1. VietnamBiz (https://vietnambiz.vn/)
2. Youtube: VIF (VietnamInvestmentForum)
3. Fanpage Tin Kinh tế hàng ngày (http://facebook.com/TintucVietnamBiz)
4. Fanpage WiGroup (https://www.facebook.com/Wigroup.vn)