Doanh nghiệp

Việt Nam sẽ đạt được khát vọng vươn mình của dân tộc

Trả lời phỏng vấn Thanh Niên trước thời khắc lịch sử, TS Trần Du Lịch, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế TP.HCM, Đại biểu Quốc hội khóa 9, 12, 13, khẳng định ông tin tưởng lần cải cách này sẽ thành công, đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Bởi theo TS Trần Du Lịch, Việt Nam đang hội tụ đầy đủ các yếu tố đã giúp các nước "hóa rồng".

Trước đây ở Quốc hội ông đã từng phát biểu, đầu tư cải cách thể chế ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả nhất nhưng cũng khó nhất. Vậy ông đánh giá thế nào về chủ trương cải cách thể chế để giải quyết "điểm nghẽn của điểm nghẽn" mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo hiện nay?

Nghiên cứu thể chế kinh tế Việt Nam trên 30 năm, tôi rất tâm huyết quá trình đổi mới gắn liền với cải cách thể chế. Thời gian tham gia Quốc hội, tôi đã nhiều lần phát biểu, phải tập trung cải cách thể chế, đó là động lực quan trọng để huy động nguồn lực phát triển. Tôi cũng biết, cải cách thể chế gặp rất nhiều khó khăn.

Việt Nam sẽ đạt được khát vọng vươn mình của dân tộc - Ảnh 1.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam đang có cơ hội duy nhất để thực hiện khát vọng vươn mình của dân tộc

ẢNH: TTXVN

Thứ nhất là tư duy về vai trò quản lý của nhà nước. Ở đây, chúng ta phải giải quyết bài toán rất khó là mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Cái gì là chuyện của Nhà nước, ta gọi là quản lý. Cái gì của thị trường, Nhà nước không can thiệp vào, để nó vận hành đúng quy luật của nó.

Thứ 2, trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp luật nói chung và lĩnh vực quản lý kinh tế nói riêng, chúng ta đã ban hành rất nhiều văn bản, từ luật đến nghị định, thông tư…, lĩnh vực nào cũng bao phủ, dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, thực thi không hề đơn giản.

Thứ 3, thể chế không chỉ là những quy định mà gồm 3 bộ phận hình thành nền công vụ của một đất nước: thủ tục hành chính, bộ máy và con người. 3 bộ phận đó giống như chiếc xe máy, có xích, nhông và líp. Nếu cùng cũ, nó vẫn chạy được, nhưng nếu thay một cái mà những cái khác vẫn cũ thì nó không vận hành được. Nên cải cách thể chế là phải tiến hành đồng bộ, không thể làm từng bộ phận. Đó là điểm mấu chốt.

Vì thế, việc Tổng Bí thư nhận diện "thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn" và thực hiện một loạt chỉ đạo để tháo điểm nghẽn khiến tôi thật sự vô cùng tâm đắc.

Việt Nam sẽ đạt được khát vọng vươn mình của dân tộc - Ảnh 2.

Tiến sĩ Trần Du Lịch

ẢNH: ĐỘC LẬP

Cụ thể thì những "chỉ đạo gỡ điểm nghẽn" nào ông cảm thấy tâm đắc nhất, vì sao?

Về quan điểm như tôi vừa nói, phải tập trung để gỡ "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Đồng thời với đó là đổi mới tư duy "chấm dứt không quản được thì cấm" trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Đây là một hành trình rất dài và không hề đơn giản.

Việt Nam sẽ đạt được khát vọng vươn mình của dân tộc - Ảnh 3.

Các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Quốc hội đang được ban hành nhanh chóng đã truyền khát vọng thông qua cơ chế chính sách cụ thể đi vào cuộc sống

ẢNH: TTXVN

Cô biết đấy, năm 1991 khi ban hành luật Công ty, chúng ta chỉ mới mở cho kinh tế tư nhân một cách có điều kiện. Đến luật Doanh nghiệp năm 2000 "nới" hơn chút nhưng vẫn phải đăng ký từng ngành nghề mới được kinh doanh. 2015 tiến thêm một bước, thay vì Nhà nước cho tư nhân làm gì thì là tư nhân được làm gì luật pháp không cấm. Đấy là sự phát triển tương đồng với các định chế quốc tế và hội nhập khu vực và thế giới. Nói nôm na là chuyển từ chọn cho sang chọn bỏ. Quá trình này mất tới 25 năm (1990 - 2015). Nhưng chưa dừng lại ở đó, khi có luật rồi lại "đẻ" ra các quy định rất chi tiết về điều kiện kinh doanh mà ta gọi là giấy phép con. Có lúc người ta thống kê đến hàng chục ngàn loại như vậy.

Phải tập trung để gỡ "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Đồng thời với đó là đổi mới tư duy "chấm dứt không quản được thì cấm" trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Đây là một hành trình rất dài và không hề đơn giản.

Chính vì vậy, khi Tổng Bí thư nói phải chấm dứt tình trạng không quản lý được là cấm, nghĩa là những rào cản, những hạn chế như vậy không được phép tồn tại. Đây là một định hướng rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh chúng ta chủ trương đổi mới sáng tạo, có những cái chưa có trong thực tiễn, chưa có quy định phải thí điểm, sandbox… Nếu cứ không quản được mà cấm thì không thể có sáng tạo.

Tương tự là phân cấp phân quyền cho địa phương. Tôi đã nhiều lần phát biểu, chúng ta cứ lồng ghép công vụ giữa trung ương và địa phương trong khi cơ chế phân quyền là tách biệt công vụ nào của Chính phủ, công vụ nào là của chính quyền địa phương. Chủ trương "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm" mới là cơ chế phân quyền chứ không phải phân cấp một cách dang dở như lâu nay chúng ta làm. Khi nghe Tổng Bí thư và sau này các Nghị quyết trung ương quán triệt như vậy, nói thật đối với tôi, nó giống như sự mong mỏi, khát vọng được đáp ứng.

Ông nhấn mạnh nhiều đến tính đồng bộ trong cải cách thể chế, vậy thì ở lần này, tính đồng bộ được thể hiện như thế nào, thưa ông?

Tôi có thể khẳng định, "Tứ trụ nghị quyết" là một cuộc cải cách đồng bộ trên 4 lĩnh vực lớn. Về thể chế, Nghị quyết 66 yêu cầu rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập. Nghị quyết 68 nâng vị trí vai trò tư nhân, không chỉ là "một trong các thành phần kinh tế" như trước đây mà là động lực, thành phần quan trọng nhất tạo ra sức mạnh của nền kinh tế. Cùng với nó, một nhận thức rất quan trọng được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết 57: Nền kinh tế Việt Nam dựa vào nội lực, nhưng nội lực đó chỉ phát huy, phát triển nếu chúng ta tận dụng được thành tựu khoa học công nghệ của thời đại. Nó đồng bộ với Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Nhà nước nên hỗ trợ công nghệ để doanh nghiệp nhỏ có thể gia công những chi tiết mà doanh nghiệp lớn đặt hàng. Song song đó, thiết kế chính sách phải làm sao để các doanh nghiệp lớn liên kết với doanh nghiệp nhỏ có lợi hơn là liên kết với người khác. Bởi trong kinh tế thị trường, doanh nghiệp chỉ quan tâm cái gì có lợi thì làm. Vậy thì chính sách phải tạo ra vùng trũng, doanh nghiệp phải cảm thấy làm cái đó có lợi thì họ sẽ tự động nhảy vào mà không cần kêu gọi. Đấy là cách để hình thành chuỗi.

Thực tế Việt Nam vẫn luôn chủ động hội nhập trên tất cả các mặt trận nhằm tận dụng quan hệ, thị trường, nguồn lực thế giới để nhân sức mạnh của mình. Nghị quyết 59 tiếp nối và xuyên suốt chủ trương đó. Và chính sự hội nhập này sẽ giúp chúng ta xoay quanh một mục tiêu lớn hơn. Đó là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Tôi cũng phải nhấn mạnh rằng, nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có nội lực mạnh, nó quan hệ tương thuộc với quốc tế. Nghĩa là anh cần tôi - tôi cần anh, chứ không phải quan hệ lệ thuộc một thị trường nào, một nước nào. Rõ ràng, "Bộ tứ Nghị quyết" là một cuộc cải cách toàn diện mang tính hệ thống.

Để thực hiện công cuộc vươn mình trong kỷ nguyên mới, trong Nghị quyết 68, lần đầu tiên khối kinh tế tư nhân được đặt vào vị trí "quan trọng nhất của nền kinh tế", theo ông cộng đồng doanh nghiệp tư nhân có đảm đương được trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó hay không?

Đây là một chủ trương đúng để huy động được nguồn lực và xác định vai trò lịch sử của khối kinh tế tư nhân trong quá trình công nghiệp hóa đất nước. Nhưng không phải nâng vai trò của tư nhân là tự nó mạnh được mà phải có chính sách đi kèm.

Ví dụ, những ngành mới, những lĩnh vực mới chúng ta mời nhà đầu tư chiến lược mà kèm theo điều kiện "phải có kinh nghiệm làm các dự án tương ứng" thì các ông mới đứng ra ngoài hết? Thế nên phải tạo điều kiện cho họ tham gia thì mới phát triển cộng đồng doanh nghiệp Việt mạnh được.

Cùng với đó, phải chú trọng xây dựng thương hiệu Việt. Không một nước phát triển nào không có hàng hóa, dịch vụ gắn liền với thương hiệu quốc gia. Nhật Bản, Hàn Quốc… đều có các thương hiệu lớn. Vì thế, phải hỗ trợ doanh nghiệp Việt xây dựng, nuôi dưỡng thương hiệu Việt chứ đừng để xây dựng rồi bán cho nước ngoài. Tôi nhấn mạnh lại, doanh nhân Việt, thương hiệu Việt là cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

Tổng Bí thư Tô Lâm từng đặt vấn đề "chúng ta đã nói rất nhiều về việc chuẩn bị tổ cho đại bàng nhưng ít đề cập tới kế hoạch chuẩn bị những cánh rừng cho các đàn ong lấy hoa làm mật", điều này được hiểu như thế nào thưa ông?

Như tôi vừa nói, không phải cho tư nhân làm là tự nó phát triển được mà phải có hệ sinh thái môi trường. Trong môi trường có cả doanh nghiệp lớn, có doanh nghiệp mới ra đời và có những người làm ăn nhỏ. Vì vậy, chúng ta thu hút đại bàng nhưng cũng phải tạo môi trường cho các doanh nghiệp nhỏ cùng tham gia, tạo việc làm cho nhiều người. Đó mới là tư duy hệ thống và mới phát triển bền vững được.

Tôi cũng phải nói là tại TP.HCM hiện nay, đóng góp của khu vực doanh nghiệp cũng chỉ tương đương kinh tế hộ. Với 5,5 triệu hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp trên cả nước, nếu chúng ta hỗ trợ họ tích lũy, đầu tư và phát triển thì đây chính là nguồn lực rất lớn đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước.

Thực ra ngay sau khi Nghị quyết 68 mở cơ chế, hàng loạt những đề xuất táo bạo, những công trình kỷ lục, những trái ngọt đầu tiên đã xuất hiện... Tôi có cảm giác rằng các doanh nghiệp tư nhân chỉ cần một môi trường đầu tư bình đẳng, minh bạch thì tự khắc họ sẽ bứt phá. Nhưng một mặt tôi cũng cảm nhận vẫn còn những lo ngại rủi ro sau một loạt các vụ việc bị xử lý vừa rồi. Theo ông, làm thế nào để khởi lên khát vọng cống hiến nhưng cũng xây dựng niềm tin cho doanh nghiệp, doanh nhân mạnh dạn làm ăn, nhất là trong kỷ nguyên sáng tạo hiện nay?

Tôi cho rằng đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Vừa qua chúng ta đã mạnh dạn truy hàng loạt vụ làm ăn phi pháp, đó là điều cần thiết bởi trong một mảnh đất, cỏ dại nhiều quá thì cây tốt không mọc được. Nhưng chúng ta phải tạo một môi trường minh bạch và xây dựng được nền tư pháp bảo đảm được niềm tin cho doanh nghiệp. Lâu nay chúng ta nói nhiều đến hỗ trợ phí, thuế, tín dụng… những cái này cũng cần nhưng cái doanh nghiệp cần hơn là Nhà nước đừng ban hành các chính sách thay đổi làm họ thiệt hại. Vì vậy, chúng ta phải xây dựng một môi trường pháp lý mà ở đó người làm ăn chân chính không cần lo gì hết, họ chỉ tập trung vào hiệu quả kinh doanh.

Ngoài tư duy đột phá, tính đồng bộ, lần cải cách này cá nhân ông còn thấy điểm gì khác biệt so với trước?

Tôi chưa thấy bao giờ mà từ chủ trương của Đảng thể chế ra pháp luật Nhà nước nhanh như lần này. Cô thấy đấy, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị vừa ra thì chẳng bao lâu Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 198 về phát triển, trong đó đề xuất rất nhiều cơ chế vượt qua luật đang có như luật về phát triển công nghiệp hỗ trợ, luật về doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tạo môi trường đồng bộ.

Cũng chưa bao giờ mà một năm Quốc hội ban hành nhiều nghị quyết đặc thù để phát triển giao thông, hạ tầng đô thị, đường sắt… như hiện nay. Đó chính là truyền khát vọng thông qua cơ chế chính sách cụ thể đi vào cuộc sống. Để người ta thấy rằng, làm theo cái đó là chúng ta đi theo con đường mà chúng ta muốn.

Với tất cả những điều ông vừa nói và những gì ông quan sát được, ông dự báo thế nào về mục tiêu vươn mình trong kỷ nguyên mới của Việt Nam trong 20 năm tới?

Nhìn lại 70 - 80 năm qua từ sau thế chiến 2 đến nay, trong hàng trăm nước đang phát triển, số thành công, trở thành nước phát triển chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ có một số điểm chung: Đầu tiên là từ lãnh tụ cho tới người dân đều có khát vọng cháy bỏng - khát vọng dân tộc. Đây là điều tôi nhận thấy ở Việt Nam hiện nay. Thứ 2, trong một thời gian tương đối dài có một nền chính trị khá ổn định và một chính quyền kiến tạo phát triển. Chúng ta có lợi thế này. Riêng yếu tố thứ 3 là tùy thuộc vào tình hình thế giới. Cái này có những cái bây giờ chúng ta có, thời đó không có. Ví dụ như cách mạng khoa học công nghệ, đột biến về giá trị gia tăng như hiện nay là chưa bao giờ có. Nhưng ngược lại chúng ta không thể như Hàn Quốc thập niên 1960 - 1970, có quyền đóng cửa thị trường để sản xuất nội địa. Ngoài những cái chung nói trên, Việt Nam còn một lợi thế riêng, đó là sự linh hoạt, lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp. Chúng ta đã chứng kiến điều này trong đại dịch Covid-19 vừa rồi và đó là một đặc thù không phải ở đâu cũng có.

Trên tất cả, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, đây là cơ hội duy nhất. Chúng ta không còn cơ hội khác khi Việt Nam chuyển sang giai đoạn dân số già trong vòng 15 - 17 năm nữa. Dĩ nhiên con đường đi tới mục tiêu có nhiều khó khăn, nhưng đã là khát vọng thì phải thực hiện bằng được. Đó là những cái tôi đặt niềm tin, chúng ta sẽ đạt được khát vọng của dân tộc, của đất nước.

Các tin khác

63 năm Tạp chí Thanh niên đồng hành cùng bạn đọc cả nước vững bước tiến vào kỷ nguyên giàu mạnh hùng cường của dân tộc

Ngay từ ngày ra số báo đầu tiên (15/10/1962) với tên gọi Nội san công tác Đoàn, trong hành trình 63 năm xây dựng, cống hiến và trưởng thành, Tạp chí Thanh niên đã ngày càng khẳng định rõ nét vai trò, vị trí là cơ quan lý luận và nghiệp vụ của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; tích cực tuyên truyền các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tổ chức Đoàn, tiếp tục giữ vững vị thế là ngọn cờ tiên phong trong công tác tuyên truyền lý luận và nghiên cứu khoa học góp phần giáo dục thế hệ trẻ, hiệu triệu, cổ vũ và đồng hành cùng thanh niên Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.

Vietnam Airlines lên tiếng về vụ bị lộ dữ liệu người dùng

Vietnam Airlines khuyến nghị khách hàng cảnh giác với các hình thức giả mạo, thư điện tử hoặc cuộc gọi đáng ngờ mạo danh Vietnam Airlines và không chia sẻ thông tin cá nhân hay mã OTP, không đăng nhập vào các hệ thống chưa được xác thực.

Khoa học và công nghệ - nền tảng bứt phá cho ngành thủy sản Việt Nam

Trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực phát triển kinh tế, ngành thủy sản Việt Nam được xem là lĩnh vực giàu tiềm năng ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm gia tăng giá trị và phát triển bền vững. Tinh thần đó được thể hiện rõ tại Hội nghị Khoa học trẻ toàn quốc ngành Thủy sản lần thứ 14,

Quốc gia không AI sẽ bị bỏ lại phía sau

Tại GITEX Global 2025, các nhà lãnh đạo chính phủ, tập đoàn hàng đầu khẳng định trí tuệ nhân tạo (AI) không còn là lựa chọn công nghệ, mà đã trở thành yếu tố quyết định vị thế và sức mạnh cạnh tranh của một quốc gia.