Việt Nam có hàng trăm nghìn lao động trẻ em
Tại buổi tập huấn năng cao năng lực truyền thông về phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em, diễn ra ở TPHCM ngày 8/12, ông Đặng Hoa Nam, Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục trẻ em (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũ), cho biết lao động trẻ em là vấn đề rất nhạy cảm.
Trẻ em có thể tham gia các công việc phù hợp với độ tuổi, nhưng rất dễ trở thành lao động trẻ em, bởi ranh giới rất mong manh và các khái niệm vẫn còn nhiều tranh cãi.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), trẻ em chiếm 15% lao động trên thế giới. Năm 2020, toàn cầu có 160 triệu trẻ em trong độ tuổi 5-17 là lao động trẻ em. Trong đó, 28% lao động trẻ em độ tuổi 5-11 và 35% trẻ 12-14 tuổi diện trên không được đi học.

Ông Đặng Hoa Nam chia sẻ về tình hình lao động trẻ em ở Việt Nam (Ảnh: Hoàng Lê).
Tại Việt Nam, theo số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2023 (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), có 731.600 trẻ em 5-17 tuổi tham gia lao động, chiếm 3,5% dân số trẻ em, với hơn 269.600 trường hợp được xác định là lao động trẻ em.
Có nhiều vấn đề đối với lao động trẻ em Việt Nam, như 76,4% trường hợp ở nông thôn; 35% làm công việc độc hại; 18,6% làm việc ban đêm (tức từ 22h hôm trước đến 6h hôm sau). Gần 39% lao động trẻ em Việt làm ở ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và hơn 12% trường hợp có ít nhất một vấn đề sức khỏe.
Lao động trẻ em ở Việt Nam có thu nhập bình quân 3 triệu đồng/tháng, chỉ bằng 1/2 so với thu nhập bình quân của lao động 15 tuổi trở lên (7,1 triệu đồng/tháng).
Ông Nam dẫn chứng, hiện nay, có nơi trẻ em còn bị cha mẹ cho đi đánh giày từ nhỏ, nhiều em bé ở miền Tây phải đi bán vé số. Đây là điển hình của việc sử dụng lao động trẻ em.
Hay trước đây khi luật chưa quy định rõ ràng, có trường hợp sau 22h trẻ thậm chí còn tham gia biểu diễn văn nghệ, nghệ thuật trong các chương trình truyền hình trực tiếp. Đây là hành vi vi phạm trong việc sử dụng trẻ em mà quốc tế đã quy định rõ từ lâu.

Trẻ em đi kiếm sống ban đêm bằng nghề biểu diễn phun lửa dầu hôi ở TPHCM (Ảnh: Hoàng Lê).
Giải pháp nào bảo vệ lao động trẻ em?
Ông Đặng Hoa Nam chia sẻ, trên thế giới có nhiều khung pháp lý để phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em, như Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em; Công ước ILO số 29, 105, 138 và 182; Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;
SDGs 2030 (Mục tiêu phát triển bền vững 2030) của Liên Hiệp Quốc trong việc thực hiện kịp thời, hiệu quả việc xóa bỏ lao động trẻ em.
Tại Việt Nam, Luật Trẻ em năm 2016 cũng có quy định về quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động; kế hoạch can thiệp hỗ trợ trẻ em khẩn cấp; trách nhiệm thông báo, tố giác của tổ chức, cá nhân; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, tổ chức kinh tế trong phòng ngừa lao động trẻ em.
Bộ Luật Lao động năm 2019 mở rộng nhận diện lao động trẻ em trong khu vực kinh tế không chính thức (không có quan hệ lao động); có mục riêng về lao động chưa thành niên.
Sau đó, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (cũ) cũng ban hành những Thông tư quy định danh mục công việc, nơi làm việc gây tổn hại đến phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên, danh mục công việc làm việc ban đêm...
Về mặt xử lý, ngoài xử phạt hành chính, trong Bộ luật Hình sự có các điều luật quy định khởi tố những việc làm vi phạm nghiêm trọng với lao động trẻ em.

Nhân viên y tế ở TPHCM hỗ trợ cho một trường hợp nữ vị thành niên yếu thế (Ảnh minh họa: BV).
Song song đó, Việt Nam cũng có các chính sách hỗ trợ, an sinh, chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến việc chăm sóc, bảo vệ lao động trẻ em, giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030.
Quyết định số 782/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định việc nâng cao nhận thức cho 90% cán bộ, giáo viên cơ sở giáo dục, nuôi dưỡng trẻ em, doanh nghiệp, hộ gia đình trong các làng nghề; 70% cha mẹ, người chăm sóc được cung cấp kiến thức về phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em.
Ông Nam cho rằng, hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức trong vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam.
Thứ nhất, lao động trẻ em ở khu vực phi chính thức, chuỗi cung ứng khó phát hiện và kiểm soát. Thứ hai, tác động của dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu… dẫn đến tình trạng đói nghèo, trẻ em di cư và bỏ học.
Thứ ba, nhận thức của các cấp, các ngành về lao động trẻ em còn chưa đầy đủ, thiếu cập nhật. Thứ tư, đội ngũ cán bộ quản lý (đặc biệt ở địa phương) còn thiếu và hạn chế năng lực phát hiện lao động trẻ em trong cộng đồng. Thứ năm, thiếu cán bộ thanh tra. Thứ sáu, hạn chế về nguồn lực.
Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam cho rằng, cần chú trọng xây dựng các tài liệu về giải pháp, mô hình can thiệp, nâng cao năng lực phòng chống, bảo vệ lao động trẻ em.
Đó là sổ tay phổ biến luật Lao động; quy trình và bảng kiểm về thanh tra lao động trẻ em khu vực phi chính thức; cẩm nang tiêu chuẩn lao động quốc tế và cam kết liên quan đến lao động trẻ em; các hướng dẫn phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em cho hợp tác xã, làng nghề, doanh nghiệp, cán bộ công đoàn.
Bên cạnh đó, cần xây dựng chương trình giáo dục đào tạo đáp ứng với nhu cầu thị trường lao động, hướng dẫn tư vấn học nghề dành cho học sinh THPT…















