Theo số liệu mà Ngân hàng Nhà nước công bố cách đây ít ngày, tín dụng hiện đã tăng hơn 11% so với đầu năm và tăng hơn 20% so với cùng kỳ, cao hơn nhiều so với trung bình lịch sử.
Cụ thể, dư nợ tín dụng cuối tháng 8 đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tăng 11,68% so với cuối năm trước. Nếu tính trọn một năm, tín dụng tăng khoảng 20,19%, mức cao nhất trong nhiều năm, trong khi thông thường chỉ khoảng 14,5%, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đoàn Thái Sơn cho biết tại tại cuộc Họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 tổ chức ngày 6/9.
Cũng tại phiên họp, Phó Thống đốc đánh giá tín dụng tăng nhanh sẽ dẫn tới hai hệ quả. Thứ nhất, các ngân hàng buộc phải tăng huy động vốn, khả năng kéo lãi suất huy động lên cao, lãi suất cho vay cũng tăng theo.
Thứ hai, tăng trưởng tín dụng mạnh đồng nghĩa cung tiền nhiều hơn, gây áp lực lạm phát trong dài hạn, Phó Thống đốc cho biết.

Dư nợ tín dụng cuối tháng 8/2025 đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tăng 11,68% so với cuối năm trước. (Nguồn: Minh Nguyệt tổng hợp).
Tăng trưởng tín dụng ước đạt 20,19% so với cùng kỳ năm trước, vượt tăng trưởng GDP danh nghĩa nửa đầu 2025 (12,4%) cho thấy thanh khoản dồi dào nhưng cũng làm tăng rủi ro lạm phát và áp lực lãi suất.
Tuy rằng, lạm phát 8 tháng đầu năm được kiềm chế ở mức hơn 3%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4 - 4,5% của Chính phủ song nếu cung tiền ở mức cao liên tục trong thời gian dài, nguy cơ lạm phát có thể nổi lên.
Không chỉ vậy, việc tăng trưởng tín dụng ở mức cao cũng gây áp lực khiến lãi suất tăng trong khi Chính phủ đang định hướng cần giữ lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Áp lực lạm phát, nợ xấu

PGS TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân. (Ảnh: Hạ An).
Phát biểu tại Toạ đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội của Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội diễn ra sáng 5/9, PGS TS. Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân cũng nhìn nhận, với chính sách tiền tệ, mục tiêu lạm phát phải được ưu tiên và tốc độ tăng trưởng cung tiền phải được kiểm soát một cách phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát.
"Sự gia tăng cung tiền quá cao trong thời gian dài sẽ khiến nền kinh tế luôn tiềm ẩn sức ép lạm phát, bong bóng giá tài sản và rủi ro nợ xấu", chuyên gia cảnh báo.
Trên thực tế, do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng và tín dụng, nên mặc dù đã giảm mạnh trong những năm gần nhưng tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam vẫn thuộc diện rất cao và vượt khá xa so với tốc độ tăng GDP theo giá hiện hành.
Kết quả là, mặc dù GDP đã được điều chỉnh tăng nhiều lần theo phương pháp tính toán mới, nhưng tỷ lệ M2/GDP của Việt Nam đã vượt lên trên so với các nước trong khu vực ASEAN và hầu hết các nước châu Á khác (ngoại trừ Trung Quốc) kể từ năm 2016. Tỷ lệ M2/GDP và tín dụng/GDP tính đến cuối năm 2024 ước lần lượt vào khoảng 156% và 136%.
Trong những năm gần đây, năng lực cung ứng hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam được cải thiện, cộng với nguồn cung nguyên vật liệu cũng như thành phẩm giá rẻ từ Trung Quốc do kinh tế nước này gặp khó khăn, đã giúp cho Việt Nam kiểm soát lạm phát khá tốt bất kể tỷ lệ cung tiền hay tín dụng/GDP ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên, sức ép lạm phát đang ngày càng lớn hơn khi cung tiền và tín dụng tiếp tục tăng cao. Ngoài ra, tỷ lệ cung tiền và tín dụng/GDP cao còn làm hạn hẹp dư địa nới lỏng tiền tệ khi cần thiết, ông Thế Anh chỉ ra.
Chính vì vậy, chuyên gia Phạm Thế Anh cho rằng NHNN cần kiểm soát tăng trưởng cung tiền ở mức hợp lý, dao động trong khoảng 5–8%/năm, để tránh tạo ra các cú sốc lạm phát và bong bóng bất động sản.
Ông cũng khuyến nghị, việc nới lỏng hay dỡ bỏ trần tín dụng chỉ nên dành cho các ngân hàng đáp ứng đầy đủ các chuẩn an toàn vốn, quản trị rủi ro và NHNN cần xây dựng được một hệ thống thông tin giám sát tự động, kịp thời và minh bạch.
Nới room tín dụng cần đi kèm điều kiện

GS TS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế quốc dân. (Ảnh: NEU).
Phân tích sâu hơn về vấn đề này tại tham luận gửi đến Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, GS TS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế quốc dân, cũng cho rằng trong các tháng cuối năm 2025, nền kinh tế Việt Nam đặt mục tiêu duy trì đà tăng trưởng cao để cả năm đạt tốc độ tăng trưởng GDP từ 8% trở lên, nên yêu cầu về vốn tín dụng và các nguồn lực tài chính sẽ tăng mạnh.
Trước áp lực này, chính sách tiền tệ cần được điều hành theo hướng linh hoạt và thận trọng, đồng thời sử dụng nhiều công cụ phối hợp.
Thứ nhất, GS Trần Thọ Đạt đề xuất, điều hành tiền tệ theo “tam giác mục tiêu”: Kiểm soát lạm phát kỳ vọng quanh mức 4% nhằm duy trì niềm tin vào đồng nội tệ; Ổn định tỷ giá theo hướng linh hoạt hai chiều, phản ánh tương đối cung - cầu ngoại tệ thực tế nhưng vẫn tránh cú sốc biến động lớn và duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ở mức hợp lý (khoảng 6–7%/năm với lĩnh vực ưu tiên) để hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu.
"Điều này đòi hỏi NHNN sử dụng đồng bộ nghiệp vụ thị trường mở (OMO), tín phiếu để điều tiết thanh khoản, hoán đổi ngoại tệ và bán ngoại tệ kỳ hạn khi áp lực tỷ giá gia tăng, đồng thời phát đi tín hiệu rõ ràng về định hướng chính sách để neo kỳ vọng thị trường", ông nói.
Giải pháp thứ hai là, thực hiện phân bổ hạn mức tín dụng có điều kiện. Việc mở “room” tín dụng cần đi kèm điều kiện ràng buộc về cơ cấu danh mục, ngân hàng được nới hạn mức khi tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và thanh khoản (LCR) đạt chuẩn, đồng thời tỷ trọng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên đạt tối thiểu 60-70% phần tăng thêm.
Ngược lại, tín dụng cho các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản đầu cơ, trái phiếu đảo nợ, chứng khoán phái sinh cần bị hạn chế bằng hệ số rủi ro cao hơn hoặc yêu cầu trích lập dự phòng bổ sung, GS Trần Thọ Đạt đề xuất.
Thứ ba, giám sát chặt thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi hoạt động phát hành đang phục hồi mạnh. Cần yêu cầu công bố thông tin theo chuẩn mực gần với Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS), bắt buộc có xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp bất động sản và nhóm phát hành trên một ngưỡng giá trị nhất định (ví dụ 500 tỷ đồng/năm).
Đồng thời, áp dụng hệ thống cảnh báo sớm (early warning) đối với trái phiếu đến hạn trong giai đoạn 2025-2027, nhất là khi lịch trả nợ tập trung có thể tạo áp lực thanh khoản.
Thứ tư, đẩy nhanh xử lý tổ chức tín dụng (TCTD) yếu kém. Chuyên gia nhấn mạnh, chính sách giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc từ 1/10/2025 sẽ giải phóng một phần thanh khoản, song cần đi kèm “vành đai an toàn”: Giới hạn tăng trưởng tín dụng dựa trên kết quả stress test; Kế hoạch tăng vốn trong vòng 2-3 năm; Áp dụng chuẩn Basel III về vốn và thanh khoản sớm hơn các ngân hàng khác; Kiểm toán độc lập chuyên đề hằng năm.
Thứ năm, phối hợp và liên thông tài khóa - tiền tệ để tối ưu hóa tác động lan tỏa. Chính sách tài khóa chủ động thông qua giải ngân đầu tư công chất lượng cao (hạ tầng logistics, năng lượng tái tạo, chuyển đổi số) cần song hành với chính sách tiền tệ mở rộng có mục tiêu, nhằm kích thích đầu tư tư nhân và nâng tổng cầu mà không tạo áp lực lạm phát quá mức, GS Trần Thọ Đạt chỉ ra.
Báo cáo chiến lược mà SSI Research công bố ngày 9/9 cũng nêu việc phát triển thị trường vốn là giải pháp then chốt trong giai đoạn tăng trưởng hiện tại. Các kênh huy động vốn khác ngoài ngân hàng cần được đẩy mạnh hơn, giúp giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng và cung cấp công cụ quản trị rủi ro đa dạng hơn.
"Cần đẩy nhanh lộ trình bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng từ 2026 và ổn định thị trường vàng nhằm giảm tác động tiêu cực trong giai đoạn chuyển tiếp. Bên cạnh đó, việc điều hành chính sách tiền tệ cần chủ động, linh hoạt, kịp thời, sáng tạo và hiệu quả", báo cáo từ SSI Research nêu rõ.