Phát biểu tại Diễn đàn phát triển khu công nghiệp Việt Nam 2025 với chủ đề "Thúc đẩy phát triển khu công nghiệp: Giải pháp toàn diện và đầu tư bền vững" diễn ra sáng 29/5, bà Nguyễn Thi Dung - Phó Chủ tịch Liên chi hội Bất động sản Công nghiệp Việt Nam (VIREA) cho rằng, phát triển hạ tầng khu công nghiệp không chỉ là nhu cầu cấp thiết mà còn là cơ hội đầu tư có tiềm năng lớn.
Tuy nhiên, việc đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp đang vướng 4 điểm nghẽn chính, bà Dung cho biết.
Theo bà, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với tham vọng trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2050. Trong bối cảnh này, đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp không chỉ là nhu cầu cấp thiết mà còn là cơ hội đầu tư tiềm năng lớn. Với sự định hướng rõ ràng, Việt Nam đang tạo ra một hệ sinh thái đầu tư thuận lợi cho phát triển khu công nghiệp hiện đại, xanh và bền vững.
4 điểm nghẽn trong phát triển hạ tầng KCN

Bà Nguyễn Thi Dung - Phó Chủ tịch Liên chi hội Bất động sản Công nghiệp Việt Nam (VIREA). (Ảnh: Hạ An).
Dẫn số liệu thu hút vốn đầu tư FDI 4 tháng đầu năm bà Dung nhấn mạnh, tính đến ngày 30/4, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam đat 13,82 tỷ USD, tăng 39,9% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt vốn FDI thực hiện trong 4 tháng đầu năm ước đạt 6,74 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ và là con số giải ngân cao nhất trong 4 tháng đầu năm của giai đoạn 5 năm gần đây.
Sự "ngược dòng" trong thu hút vốn FDI của Việt Nam so với thế giới cho thấy tiềm năng thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam cũng như tạo ra nhu cầu lớn về đất công nghiệp và hạ tầng khu công nghiệp.
Mặc dù tiềm năng phát triển rất lớn, nhưng việc đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp vẫn gặp phải một số thách thức quan trọng. Các "điểm nghẽn" này khiến doanh nghiệp bị ứ đọng nguồn vốn, không phát huy được hiệu quả đầu tư.
Hiện vẫn còn nhiều điểm nghẽn về giải phóng mặt bằng làm ảnh hưởng đến việc nghiệm thu, quyết toán, dẫn đến thực tế là có những đoạn đường thi công xong nhiều năm không ai sử dụng vì không kết nối được.
4 điểm nghẽn đó bao gồm: Thủ tục hành chính quy trình phê duyệt phức tạp; quy hoạch hạ tầng thiếu đồng bộ và tầm nhìn dài hạn; Giải phóng mặt bằng khó khăn trong đền bù và tái định cư; Kết nối hạ tầng thiếu đồng bộ giữa trong và ngoài hàng rào.
Mặc dù vậy, Phó Chủ tịch VIREA cũng chỉ ra rằng sự cải cách thể chế và pháp luật đang tạo ra cơ hội để tháo gỡ các điểm nghẽn này.
"Với sự định hướng rõ ràng từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược tăng trưởng xanh và 'bộ tứ trụ cột' là 4 nghị quyết 57, 59, 66 và 69 của Bộ Chính trị, Việt Nam đã, đang tạo ra một khung chính sách thuận lợi và hấp dẫn cho các nhà đầu tư", bà Dung cho biết.
Nghị định 35/2022/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp đã mang lại những thay đổi tích cực, kịp thời nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho đầu tư hạ tầng khu công nghiệp. Khu công nghiệp được xác định là đã được thành lập kể từ ngày cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư.
Nhu cầu đất công nghiệp sẽ tăng mạnh

Phiên thảo luận tại Diễn đàn phát triển khu công nghiệp Việt Nam 2025. (Ảnh: Hạ An).
Về triển vọng đầu tư, bà nhấn mạnh, nhu cầu đất công nghiệp dự kiến tiếp tục tăng mạnh và nguồn cung mới được bổ sung đáng kể trong giai đoạn 2025 - 2030, đây là thời điểm vàng để các doanh nghiệp triển khai các dự án đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp", bà Dung phân tích.
Bà cũng nhấn mạnh cơ hội phát triển hạ tầng khu công nghiệp khi ngoài 435 khu công nghiệp đang hoạt động, còn có 72 khu dự kiến mở rộng, 221 khu quy hoạch mới, 23 khu điều chỉnh quy hoạch và 299 khu dự kiến thành lập khi đủ điều kiện.
Quy mô phát triển lớn này tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Nhu cầu thuê đất đang dần dịch chuyển sang các tỉnh thành cấp 2 do khu vực trung tâm khan hiếm.
Đối với khu vực cụm công nghiệp, tiềm năng phát triển còn lớn hơn với 493 cụm đang hoạt động, 331 cụm dự kiến mở rộng và phát triển, 95 cụm điều chỉnh quy hoạch, 939 cụm quy hoạch mới và 211 cụm dự kiến thành lập khi đủ điều kiện.
Bên cạnh mô hình khu công nghiệp xanh truyền thống, các xu hướng mới đang nổi lên bao gồm khu công nghiệp tích hợp logistics, khu công nghiệp dịch vụ đô thị và khu công nghiệp thông minh. Những mô hình này đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các nhà đầu tư nước ngoài và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho các nhà phát triển dự án.
Tầm nhìn đến năm 2050, khi Việt Nam trở thành nước phát triển với nền kinh tế vận hành theo phương thức kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các khu công nghiệp sẽ cần được nâng cấp và phát triển theo hướng thông minh, tự động hóa cao và tích hợp đầy đủ các yếu tố của Cách mạng công nghiệp 4.0.
"Điều này mở ra không gian đầu tư rộng lớn cho các công nghệ tiên tiến như IoT, AI, big data và các giải pháp năng lượng tái tạo trong phát triển hạ tầng khu công nghiệp", Phó Chủ tịch VIREA nhìn nhận.
Cũng tại Diễn đàn, các đại biểu đã thảo luận về những thách thức trong phát triển khu công nghiệp. Ông Phạm Thanh Bình, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, Thông tin và Hỗ trợ đầu tư phía Bắc, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), cho biết hiện cả nước có 416 khu công nghiệp, với tổng diện tích gần 129.000ha. Tuy nhiên, mới chỉ có 6 khu công nghiệp sinh thái được thí điểm với sự hỗ trợ của UNIDO tại Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ và TP HCM.
Theo ông, phần lớn khu công nghiệp vẫn vận hành theo mô hình truyền thống, phân tán hạ tầng xử lý, thiếu tích hợp dịch vụ hậu cần - đổi mới - đào tạo, chưa phát huy hiệu quả sử dụng đất hay năng lượng.
Về nguồn lực nhân lực, báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, chỉ khoảng 15% doanh nghiệp trong các khu công nghiệp có khả năng tiếp nhận công nghệ cao hoặc tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Chủ tịch VIREA, Việt Nam chủ yếu thu hút FDI ở các ngành sử dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp, ít có sự lan tỏa công nghệ. Do đó, các mô hình tiên tiến như khu công nghiệp sinh thái, công nghệ cao, tích hợp còn hạn chế về số lượng. Tình trạng thiếu hụt lao động chất lượng cao, nhất là lĩnh vực tự động hoá, quản trị sản xuất hiện đại ngày càng gia tăng.