Doanh nghiệp

Quy mô kinh tế Việt Nam tăng ngoạn mục

Khởi xướng đổi mới và thành quả ấn tượng

Khi bắt đầu chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN từ năm 1986 đến nay, nước ta đã vượt qua vô vàn gian nan thử thách. Các nhà lãnh đạo tiền bối khởi xướng công cuộc đổi mới giữa lúc quốc lực cạn kiệt sau cuộc kháng chiến chống Mỹ và sau hai cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới, và còn bị cấm vận nghiệt ngã trong một thời gian dài.

Quy mô kinh tế Việt Nam tăng ngoạn mục- Ảnh 1.

Từ đống tro tàn đổ nát sau chiến tranh, Việt Nam đã có hành trình chuyển mình ngoạn mục

ẢNH: N.A

Thách thức gay gắt nhất trong năm đầu tiên đổi mới là siêu lạm phát 774%. Việt Nam đã phải vật lộn với tình trạng lạm phát phi mã trong nhiều năm, phải kiềm chế dần từng năm một. Tới năm 1993 mới đưa được lạm phát xuống còn một con số và duy trì mức lạm phát trên dưới 5% trong giai đoạn 1993 - 2000. Từ đó đến nay, trừ một số năm có mức lạm phát cao 2 con số, tình trạng lạm phát chung là duy trì ở mức thấp hợp lý. Đó là cuộc chiến cam go, phải giải quyết bằng những biện pháp tổng hợp: Khai thông và thúc đẩy sự vận hành của thị trường, áp dụng chính sách tiền tệ hợp lý, từng bước thay đổi hệ thống pháp luật để tương thích với cơ chế thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và các quyền tự do khác của người dân.

Tuy nền kinh tế bắt đầu được khai thông, trước hết trong nông nghiệp, rồi công nghiệp và phân phối lưu thông nhưng vào năm 1990, nước ta vẫn vô cùng khó khăn với thu nhập bình quân đầu người chưa tới 100 USD và 70% dân số đói nghèo. Tỷ lệ này vào năm 1993 là 58%. Thành tựu ngoạn mục nhất của công cuộc đổi mới là tốc độ xóa đói giảm nghèo. Từ mức đói nghèo trên 70% đã giảm xuống chỉ còn dưới 1,9% theo chuẩn nghèo đa chiều.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2025 ước đạt 491 tỉ USD, xếp thứ 34 trên thế giới và thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á. Dự báo này dựa trên kết quả đạt được năm 2024 với GDP đạt 476,3 tỉ USD, quy mô kinh tế của Việt Nam cao thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á xếp trên Philippines (462 tỉ USD) và Malaysia (422 tỉ USD). Nếu xét trên thế giới, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 34. IMF ước tính đến năm 2029, quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ đạt 627 tỉ USD, vượt qua Thái Lan (616 tỉ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới, và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Thứ hạng của Việt Nam tiếp tục được giữ vững trong năm 2030, khi quy mô kinh tế được dự báo sẽ đạt 666,5 tỉ USD.

Đầu tháng 8, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 226 về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực, địa phương và các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để bảo đảm tăng trưởng cả nước năm nay đạt 8,3 - 8,5%. Đồng thời, đạt tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2025 dưới 4,5%. Bên cạnh đó, tổng đầu tư toàn xã hội năm 2025 tăng 11 - 12%; huy động và thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội trong 6 tháng cuối năm khoảng 2,8 triệu tỉ đồng… Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: thúc đẩy động lực tăng trưởng từ đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu; phát triển các động lực tăng trưởng mới; đảm bảo chính quyền địa phương hoạt động hiệu quả; và xây dựng kịch bản tăng trưởng cho các tháng cuối năm.

Quy mô kinh tế Việt Nam tăng ngoạn mục- Ảnh 2.

Đầu những năm 2000, khi nền kinh tế đã nhích lên, một số chuyên gia dựa trên GDP đầu người, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam và các nước trên thế giới, đã đưa ra nhận định không mấy lạc quan rằng Việt Nam rất khó có thể thu hẹp khoảng cách, nói gì đến đuổi kịp. Thế nhưng thực tế hoàn toàn khác.

Từ năm 2000 đến nay khoảng cách thu nhập (GDP bình quân đầu người) của Việt Nam so với hầu hết các nước trong khu vực và thế giới (trừ Trung Quốc) đều rút ngắn rất đáng kể. Đơn cử như với Singapore, năm 2000, GDP bình quân đầu người của đảo quốc cao gấp 55,8 lần so với Việt Nam, đến năm 2024, con số này rút ngắn xuống còn 19,7 lần. Tương tự, nếu năm 2000, GDP đầu người của Thái Lan cao gấp 5,2 lần so với chúng ta thì đến năm 2024 rút ngắn còn 1,6 lần. Cùng khoảng thời gian này, Malaysia cao gấp 9,6 lần so với VN, năm 2024 rút ngắn còn 2,7 lần. Indonesia, từ gấp 2,1 lần nay về căn bản Việt Nam đã đuổi kịp. Philippines năm 2000 cao gấp 2,8 lần thì nay chúng ta đã vượt lên. Hay Ấn Độ, năm 2000, họ cao hơn chúng ta, nay Việt Nam đã vượt xa, bằng 1,6 lần họ.

Đó chính là thành quả ấn tượng của công cuộc đổi mới bên cạnh thành tựu ngoạn mục của công cuộc xóa đói giảm nghèo nói trên.

Kiên định với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN

Quá trình thu hẹp khoảng cách giữa Việt Nam với các nước chứng minh sự thuyết phục của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN với nền tảng chính trị ổn định được giữ vững. Một số người cho rằng nên bỏ "cái đuôi" XHCN thì nền kinh tế sẽ phát triển mạnh hơn. Quan điểm này là không đúng. Bởi dù định hướng XHCN nhưng hoàn toàn không phải là sự pha trộn giữa kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch mà Việt Nam đã xây dựng thể chế cho kinh tế thị trường vận hành đầy đủ. Còn định hướng XHCN là sự ổn định chính trị, là nhà nước sử dụng nguồn lực để đối phó những rủi ro khủng hoảng và phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế theo nguyên tắc của thị trường, bảo đảm chính sách an sinh xã hội cho những thành phần yếu thế.

Mặt khác, nói kinh tế thị trường định hướng XHCN là "không có tiền lệ, không phổ quát trên thế giới" cũng không đúng. Nền kinh tế của Nhật Bản, Mỹ hay châu Âu đều mang nội hàm tương tự, chỉ khác ở chỗ không gọi tên theo định hướng gì mà thôi. Đặc biệt, đường lối của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng được hoàn thiện theo hướng: Muốn có kinh tế thị trường định hướng XHCN thì trước tiên phải có kinh tế thị trường đầy đủ. Không có kinh tế thị trường đầy đủ thì không có sự bảo đảm cho định hướng XHCN. Đến nay đã có hơn 75 quốc gia, trong đó có các nền kinh tế thị trường lớn như Nhật Bản, Anh, Canada, Úc, Hàn Quốc… công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, nghĩa là họ công nhận nước ta có kinh tế thị trường đầy đủ. Mỹ và châu Âu sở dĩ chưa công nhận là do những sức ép chính trị và sức ép của một số nhóm lợi ích cạnh tranh với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Bằng chứng thuyết phục của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là chúng ta đã đuổi kịp Indonesia, vượt qua Philippines và Ấn Độ, vốn là những nước tư bản chủ nghĩa. Ngay cả so với những nước XHCN trước đây đã chuyển qua mô hình tư bản chủ nghĩa như Ba Lan hay Hungary thì VN cũng có tốc độ phát triển nhanh hơn và khoảng cách thu nhập đã rút ngắn từ 11 - 12 lần xuống còn khoảng 5 lần. Đối với Nhật Bản, Mỹ và phương Tây chúng ta vẫn rút ngắn khoảng cách rất đáng kể (xem bảng).

Thực tiễn cho thấy việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN gần 40 năm qua với những thành tựu như ngày nay là một quá trình cam go không có tiền lệ. Đó là quá trình từ "xé rào" để khai thông đến xác lập bằng thể chế, bằng Hiến pháp, bằng hệ thống pháp luật để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, vướng chỗ nào gỡ chỗ đó. Đó là quá trình nhà nước thu hẹp những "sứ mệnh" không cần thiết và bất khả thi để mở rộng thị trường, việc tinh gọn bộ máy và cải cách thủ tục hành chính liên tục được tiến hành nhằm mục đích này. Từ đó, chúng ta đã xác lập thể chế bằng việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Không có nhà nước pháp quyền thì không thể bảo đảm duy trì những thành quả đổi mới.

Tính theo sức mua, Việt Nam là nước có thu nhập cao

Việt Nam mới trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp từ năm 2009 cho đến ngày nay. Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB), thu nhập từ 1.146 - 4.515 USD là nước có thu nhập trung bình thấp, từ 4.516 - 14.005 USD là nước có thu nhập trung bình cao, thu nhập lớn hơn 14.005 USD là nước có thu nhập cao - chuẩn này tính theo tổng thu nhập quốc dân (GNI). Năm 2024, dù GDP (tổng sản phẩm quốc nội) bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt 4.717 USD, nhưng GNI thực tế mới đạt 4.490 USD. Mức này vẫn chưa chạm mốc thu nhập trung bình cao (4.516 USD), khả năng trong năm nay (2025) mới đạt được.

Tuy nhiên, kinh nghiệm thế giới cho thấy trong số 101 quốc gia đạt mức thu nhập trung bình vào những năm 1960, gần 50 năm sau, đến năm 2008 cũng chỉ có 13 quốc gia trở thành nước có thu nhập cao. Cái này gọi là "bẫy thu nhập trung bình", rất khó thoát. Rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" chủ yếu do những nền kinh tế nói trên đi lên từ lợi thế của tài nguyên và lao động giá rẻ; khi tài nguyên dần trở nên cạn kiệt, lao động giá rẻ mất đi lợi thế nhưng không kịp chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức và công nghệ. Việt Nam đặt mục tiêu trước năm 2045, tức là 20 năm nữa, trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta đang tăng tốc cải cách toàn diện, tháo gỡ tận gốc những điểm nghẽn về thể chế, coi đó là "điểm nghẽn của điểm nghẽn".

Tuy nhiên, quy mô GDP/GNI và GDP/GNI bình quân đầu người cũng mới là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, là thước đo của quá trình phát triển chứ chưa nói lên mức sống thực tế của người dân. Chuẩn về thu nhập do WB đưa ra là tính theo USD thực tế chứ không phải tính sức mua tương đương (PPP). Nếu tính theo PPP, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập cao. Cụ thể, tính theo PPP thì sức mua 1 USD ở Việt Nam hiện tương đương 3,33 USD ở Mỹ. Nhưng tính theo PPP cũng chưa nói được thực tế sức mua bởi giá xăng ở Mỹ và giá xăng ở Việt Nam trung bình ngang nhau, nhưng giá nhân công thì Mỹ cao gấp khoảng 20 lần so với Việt Nam.

Một vấn đề khác là "kinh tế ngầm" (hay còn gọi là khu vực kinh tế chưa quan sát) ở Việt Nam còn quá lớn. Loại trừ những hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, tệ nạn ma túy và các dạng thu nhập từ trộm cướp mà nước nào cũng cấm, có những hoạt động ở Việt Nam không hợp pháp (không thống kê, không thu được thuế, không tính vào GDP/GNI) nhưng ở nhiều nước thì hợp pháp. Ví dụ như cá cược hay casino (thống kê, thu thuế và tính vào GDP/GNI). Hay chỉ riêng việc giao dịch tiền điện tử (crypto), theo nhiều ước tính thì Việt Nam có tới 17 triệu người sở hữu và giao dịch tiền điện tử, đứng trong top 7 nước có người sở hữu crypto lớn nhất thế giới, nhưng trong một thời gian dài không thu thuế và không tính vào GDP/GNI. Đến năm nay, Việt Nam bắt đầu công nhận sở hữu và đang thí điểm mở sàn giao dịch và thu thuế trong khi các nước khác thì đã thu thuế và tính vào GDP/GNI. Như vậy, nếu tính cả những lĩnh vực kinh tế ta coi là "ngầm" còn ở các nước thì hợp pháp nói trên thì GDP/GNI thực tế của nước ta không dừng lại ở những con số thống kê và khoảng cách thu nhập theo bảng dưới đây càng rút ngắn hơn nữa.

Sau độc lập năm 1945, đến thống nhất năm 1975 và công cuộc đổi mới năm 1986, Việt Nam đã đi một hành trình dài từ đổ nát sau chiến tranh để trở thành đất nước có quy mô kinh tế hàng đầu trong khu vực. Đặc biệt, khoảng cách thu nhập của Việt Nam được thu hẹp nhanh chóng và vượt ngoài dự đoán của rất nhiều tổ chức kinh tế thế giới từ 2 thập niên trước.

Các tin khác

Giá xăng chiều nay sẽ tăng hay giảm?

Chiều nay (21/8), giá xăng trong nước bước vào kỳ điều hành thông lệ, tính từ đầu năm đến nay, giá xăng đã có 13 kỳ giảm, 14 kỳ tăng và 5 kỳ diễn biến trái chiều.