Theo Cục Thống kê, trong tháng 11, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 77,06 tỷ USD, giảm 5,4% so với tháng trước và tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 839,75 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2025. (Nguồn: Cục Thống kê).
Lợi thế cạnh tranh không bị triệt tiêu
Đánh giá kết quả này, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, giảng viên Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng mức gần 840 tỷ USD đến hết tháng 11 mới chỉ phản ánh một phần bức tranh, khi tháng 12 là thời điểm thương mại thường tăng tốc mạnh vẫn chưa được tính.
Theo ông Lạng, sức bật hiện nay xuất phát từ hai trụ cột. Thứ nhất, nội lực gồm chi phí lao động cạnh tranh, lợi thế tài nguyên và khả năng linh hoạt của doanh nghiệp trong nước. Thứ hai, nguồn lực từ các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lớn với mạng lưới sản xuất cung ứng toàn cầu đã định hình, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị quốc tế.
“Đây là minh chứng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang đi đúng hướng, mở ra nền tảng bền vững để xuất nhập khẩu Việt Nam tiếp tục bứt phá trong thời gian tới”.
Trong khi đó, dù mức thuế quan mà Mỹ áp lên hàng hóa Việt Nam đã tăng lên 20% cao hơn trước, song tác động tổng thể tới xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá là không quá lớn, bởi các đối thủ cạnh tranh trong khu vực khi xuất khẩu vào Mỹ cũng phải chịu mức thuế tương đương.
Nói cách khác, lợi thế cạnh tranh tương đối của Việt Nam không bị triệt tiêu. Mỹ vẫn là thị trường trọng điểm và mối quan hệ hợp tác ổn định giữa hai bên giúp duy trì được chỗ đứng.
“Nếu duy trì nhịp khoảng 85 tỷ USD trong tháng cuối năm, tổng kim ngạch xuất khẩu khẩu cả năm có thể đạt 925 tỷ USD”, chuyên gia nhận định.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, giảng viên Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. (Ảnh: Nguyễn Ngọc)
Trước đó, Công ty Cổ phần Chứng khoán MB (MBS) dự báo tăng trưởng xuất khẩu năm nay có thể đạt 15%–17% nhờ nhu cầu quốc tế hồi phục nhẹ và căng thẳng thuế quan hạ nhiệt. Hoạt động xuất khẩu dự kiến tiếp tục sôi động trong hai tháng cuối năm, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm, mặc dù rủi ro về thuế quan vẫn tồn tại khi Mỹ chưa định nghĩa rõ “hàng hóa trung chuyển”.
Về nhập khẩu, các thị trường Trung Quốc và Hàn Quốc được dự báo duy trì ổn định. Giá trị nhập khẩu từ Mỹ dự kiến tăng nhờ Việt Nam nhập hàng với thuế suất gần 0%, thể hiện thiện chí thu hẹp thặng dư thương mại. MBS ước tính tăng trưởng nhập khẩu cả năm ở mức 17%–18%, đưa thặng dư thương mại dự báo đạt khoảng 25 tỷ USD.
Xuất khẩu có xu hướng giảm dần
Mặc dù hoạt động thương mại của Việt Nam đến nay vẫn ổn định, Bộ phận Nghiên cứu Thị trường và Kinh tế Toàn cầu của Ngân hàng UOB (Singapore) lưu ý một số rủi ro bên ngoài vẫn hiện hữu. Đáng chú ý, mức thuế đối với hàng trung chuyển vào Mỹ chưa có hướng dẫn cụ thể, trong khi thuế theo ngành, đặc biệt đối với chất bán dẫn và đồ nội thất, vẫn đang chờ công bố.
Đây là những lĩnh vực then chốt khi trong năm 2024, hàng điện tử chiếm 31% xuất khẩu sang Mỹ, máy móc thiết bị 21% và đồ nội thất 10%. Nếu các mức thuế này được áp dụng, hơn 40% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có thể chịu tác động.
Tương tự, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2025 đạt 6,7% nhưng giảm xuống 6,0% cho năm 2026 do các mức thuế đối ứng của Mỹ có thể ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư, gây áp lực ngắn hạn lên tăng trưởng.
Nếu môi trường kinh tế toàn cầu xấu hơn dự kiến do tăng trưởng chậm lại của các đối tác thương mại lớn và biến động thị trường tài chính gia tăng thách thức đối với nền kinh tế sẽ tăng lên.
Thực tế, số liệu xuất khẩu cũng cho thấy một xu hướng giảm dần từ tháng 8 đến nay. Theo thống kê của Bộ Công thương, từ khi Mỹ áp thuế (tháng 8), kim ngạch theo từng tháng ghi nhận xu hướng giảm, cụ thể tháng 8 giảm 1,97% so với tháng 9; tháng 9 giảm 1,5%; tháng 10 giảm 1,3%; tháng 11 giảm tới 7,1%.
(Nguồn: Nguyễn Ngọc tổng hợp từ Cục Hải quan và Cục Thống kê).
Dự báo về năm 2026, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhận định thị trường thế giới vẫn trong giai đoạn phục hồi, nhưng tác động của thuế quan Mỹ cần được nhìn nhận rõ.
Hiện, Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới và cũng là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam, do đó các biến động từ thị trường này sẽ có “độ lan tỏa” sang nhiều khu vực khác. Những ngành chịu tác động mạnh gồm dệt may, da giày, gỗ, thủy sản và điện tử.
Vì vậy, việc chủ động chuẩn bị kịch bản ứng phó, xây dựng kế hoạch thị trường và nâng cao sức chống chịu là yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Dư địa tăng trưởng vẫn rất lớn
Về dài hạn, ông Hải cho rằng doanh nghiệp chỉ có thể giữ vững vị thế xuất khẩu khi đầu tư bài bản vào chất lượng sản phẩm. Chất lượng tốt không chỉ giúp duy trì uy tín với khách hàng mà còn tạo nền tảng để mở rộng sang các thị trường mới.
Tuy nhiên, chất lượng thôi là chưa đủ, doanh nghiệp cần đồng thời chú trọng xây dựng thương hiệu, bởi thương hiệu chính là “điểm tựa niềm tin” đối với cả khách hàng truyền thống lẫn khách hàng mới.
“Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư cho chất lượng nhưng lại chưa quan tâm đúng mức đến thương hiệu là yếu tố quyết định giá trị và khả năng cạnh tranh lâu dài”, ông Hải nêu rõ.
Bên cạnh đó, từ năm 2026, Liên minh châu Âu (EU) sẽ áp dụng cơ chế điều chỉnh carbon tại biên giới (CBAM) với một số mặt hàng như thép, nhôm, hydrogen. Việt Nam có xuất khẩu thép sang EU và nhiều thị trường khác có thể sẽ áp dụng chính sách tương tự.
"Các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều năng lượng như thép, xi măng, nhôm, vật liệu xây dựng cần sớm đưa các tiêu chuẩn giảm phát thải, trung hòa carbon vào quy trình sản xuất để đáp ứng yêu cầu của thị trường toàn cầu nếu không muốn đánh mất lợi thế ngay trên các thị trường xuất khẩu chủ lực”, ông Hải lưu ý.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương. (Ảnh: Nguyễn Ngọc)
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, cũng cho rằng dư địa tăng trưởng của xuất khẩu vẫn rất lớn khi Việt Nam mới chỉ khai thác được khoảng 1/3 năng lực, 2/3 còn lại vẫn đang bỏ ngỏ.
Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục mở rộng thị trường, đa dạng hóa đối tác và khai thác sâu hơn các khu vực trọng điểm như châu Âu, Mỹ, ASEAN và châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời mở lối vào các thị trường mới nổi giàu tiềm năng như Trung Đông và châu Phi. Song song đó, việc thu hút FDI ở cấp độ cao hơn để hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu cũng cần được coi trọng.
Ông Lạng cho rằng Việt Nam phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu sản phẩm, đặc biệt với các mặt hàng chế tạo, sản phẩm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và nhóm hàng sử dụng lao động chất lượng cao. Nếu làm tốt, đây sẽ là yếu tố định hình một bức tranh xuất khẩu hoàn toàn khác trong tương lai.
Ngoài ra, việc tận dụng đồng bộ các nền tảng thương mại điện tử sẽ tạo thêm một nguồn lực lớn cho tăng trưởng. Việt Nam hiện có khoảng 10.000 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên.
"Nếu được đầu tư bài bản từ khâu sản xuất đến marketing chuyên nghiệp, nhóm sản phẩm này có thể trở thành nguồn hàng xuất khẩu đầy tiềm năng trong thời gian tới", vị chuyên gia này kỳ vọng.













