Tại hội thảo góp ý dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) chiều 26/9, các chuyên gia cho rằng việc sửa luật lần này cần đặt trọng tâm vào tính tương thích với mô hình chính quyền đô thị 2 cấp, đồng thời giải quyết tình trạng chồng chéo pháp lý đang cản trở hoạt động đầu tư, xây dựng.
Luật mới cần tương thích với chính quyền 2 cấp
TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm - Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch kiến trúc đô thị Việt Nam - nhấn mạnh dự thảo cần bổ sung, làm rõ các khái niệm để đảm bảo tính toàn diện và tương thích với các luật liên quan. Ông dẫn chứng: khái niệm “công trình xây dựng” chưa phản ánh yếu tố sáng tạo nghệ thuật; “sự cố công trình” chưa đề cập nguyên nhân khách quan như thiên tai, biến đổi khí hậu.
“Dự thảo luật phải kế thừa có chọn lọc các khái niệm trong những bộ luật hiện hành, đồng thời cập nhật các yếu tố mới để tránh khoảng trống pháp lý khi áp dụng”, ông Nghiêm nhấn mạnh.
Theo ông Nghiêm, quan hệ giữa hoạt động xây dựng và quy hoạch xây dựng đang có nhiều thay đổi. Quy hoạch không chỉ theo hướng từ trên xuống (quốc gia, ngành) mà còn “ngang và dưới lên” như quy hoạch phân khu, chi tiết. Do đó, dự thảo Luật Xây dựng cần được thiết kế sao cho phù hợp với mô hình chính quyền đô thị 2 cấp, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp trong việc điều chỉnh, giám sát quy hoạch.
“Cần có khung quy định cụ thể để chính quyền 2 cấp thực hiện quản lý trật tự xây dựng, cấp phép và xử lý vi phạm. Nếu không, các địa phương dễ lúng túng, chồng chéo thẩm quyền”, ông Nghiêm nói.

Quang cảnh hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Xây dựng sửa đổi (Ảnh: Tuấn Minh).
Cắt giảm thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Ở góc nhìn doanh nghiệp, ông Nguyễn Quốc Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu Xây dựng Việt Nam (VACC) - chỉ rõ điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là sự thiếu liên thông giữa Luật Xây dựng và các luật khác như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước.
Ông dẫn chứng, Nghị định 226 quy định kiểm định và thẩm định giá trị đầu tư hạ tầng rất chặt chẽ, nhưng trong lĩnh vực xây dựng lại chưa có quy định tương thích. Hệ quả là mỗi địa phương thực hiện một cách khác nhau, làm doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí.
“Các hoạt động xây dựng cần lấy Luật Xây dựng làm gốc. Khi liên quan đến đất đai thì tuân theo Luật Đất đai, nhưng quá trình triển khai công trình phải có sự phối hợp giữa các bộ, ngành. Nếu không, luật trên giấy sẽ khó đi vào thực tế”, ông Hiệp nhấn mạnh.
Ông cũng chỉ ra sự bất nhất giữa Luật Xây dựng và Luật Nhà ở về thời gian bảo hành công trình. Luật Xây dựng quy định 24 tháng, trong khi Luật Nhà ở yêu cầu thời gian dài hơn, gây khó cho nhà thầu, đặc biệt là doanh nghiệp triển khai nhiều loại công trình.
Bên cạnh đó, một số hạng mục mới chưa có định mức chi phí rõ ràng, dẫn đến cách áp dụng khác nhau giữa các địa phương, ảnh hưởng đến tính minh bạch và tiến độ dự án.
Ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - đánh giá cao tinh thần chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn trách nhiệm và trao quyền nhiều hơn cho các chủ thể. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng cơ chế hậu kiểm phải rõ ràng, tránh hình thức để bảo đảm hiệu quả thực chất.
Ngoài ra, nhiều ý kiến đề nghị dự thảo cần quy định cơ chế phối hợp thống nhất giữa các ngành trong các dự án hạ tầng quy mô lớn như cao tốc, sân bay, cảng biển. Việc này sẽ giúp giảm tình trạng mỗi dự án phải làm lại nhiều thủ tục ở các cấp khác nhau.
Sửa luật để tạo đột phá tăng trưởng
Kết luận hội thảo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Trần Văn Khải nhấn mạnh: “Việc sửa đổi Luật Xây dựng là yêu cầu tiên quyết để tạo đột phá, tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, thúc đẩy ngành xây dựng trở thành trụ cột của nền kinh tế. Nếu không tháo gỡ kịp thời, mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số trong thời gian tới sẽ khó đạt được”.
Ông Khải đề nghị Bộ Xây dựng và Ban soạn thảo tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng, tâm huyết của chuyên gia, doanh nghiệp để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo. Mục tiêu là thiết lập khung pháp lý minh bạch, thông thoáng, phù hợp thông lệ quốc tế và thực tiễn quản lý theo mô hình chính quyền 2 cấp, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững.