Trong đó, nội dung được cộng đồng doanh nghiệp quan tâm là việc tháo gỡ các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, chưa rõ ràng, tạo gánh nặng chi phí tuân thủ… liên quan đến lĩnh vực đầu tư và tài chính.
Việc chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá, đấu thầu
Khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư và Khoản 5 Điều 29 Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định về các trường hợp được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Việc bổ sung “chuỗi dự án” vào trường hợp được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư là phù hợp với nhiệm vụ, giải pháp “chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng” theo Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/05/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Đây là cách thức để cắt giảm thủ tục, thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng cao.
Qua nghiên cứu và khảo sát, nhà đầu tư phát hiện tiềm năng phát triển của khu vực lân cận, tiết giảm được chi phí, khả thi để thực hiện các dự án có mục tiêu liên quan với dự án hiện hữu. Trường hợp này việc tổ chức đấu giá, đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư là không cần thiết và tốn kém chi phí thủ tục cho nhà nước.
Đơn cử, một số dự án điện gió nhà đầu tư đã được chính quyền cấp tỉnh chấp thuận cho khảo sát hoặc đo gió. Sau đó, nhà đầu tư đã bỏ chi phí để thực hiện khảo sát, đo gió. Trong trường hợp này chấp thuận cho nhà đầu tư thực hiện các bước tiếp theo sẽ tiết kiệm chi phí và đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán trong quản lý của chính quyền.
Vì vậy, đề xuất bổ sung điểm c1 vào sau điểm c Khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư như sau:

“Đối với dự án đầu tư thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trong các trường hợp chuỗi dự án do nhà đầu tư đề xuất bao gồm ít nhất 5 dự án có mục tiêu kết nối với nhau và hỗ trợ lẫn nhau để phát triển, tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó có ít nhất một dự án hiện hữu đang được nhà đầu tư vận hành và một số dự án đã được nhà đầu tư khảo sát và đề xuất với UBND cấp tỉnh; dự án điện gió mà nhà đầu tư đã được UBND tỉnh cho thực hiện khảo sát hoặc đo gió trước ngày 1/1/2025.”
Việc đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư dự án năng lượng
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 39 Nghị định 115/2024/NĐ-CP, tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư đối với dự án năng lượng chỉ bao gồm yêu cầu vốn chủ sở hữu.
Quy định như trên sẽ dẫn đến số lượng nhà đầu tư tham gia nộp hồ sơ quan tâm rất nhiều mà không tính đến khả năng đáp ứng kinh nghiệm, dẫn đến nhiều nhà đầu tư không đáp ứng đủ yêu cầu và cơ quan quản lý phải tốn thêm chi phí sàng lọc không cần thiết.
Mặt khác, nếu nhà đầu tư đã được chính quyền cấp tỉnh chấp thuận cho khảo sát hoặc đo gió thì chắc chắn sẽ đưa ra được các đề xuất khả thi, hiệu quả về dự án năng lượng. Khi nhà đầu tư thực hiện các bước tiếp theo sẽ tiết kiệm chi phí và đảm bảo tính sự đồng bộ, nhất quán trong quản lý của chính quyền.
Vì vậy, đề xuất bổ sung điểm d vào sau điểm c Khoản 4 Điều 39 Luật Đầu tư như sau:
Tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực của nhà đầu tư, gồm: d) Đối với dự án năng lượng, ngoài các tiêu chuẩn quy định tại điểm a khoản này, tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ về năng lực gồm yêu cầu nhà đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho thực hiện khảo sát hoặc đo gió.
Giá điện trong mua bán
Về đàm phán giá điện, điểm c Khoản 1 Điều 19 của Nghị định 56/2025/NĐ-CP quy định “Giá điện trúng thầu là giá điện tối đa để bên mua điện đàm phán giá hợp đồng mua bán điện với nhà đầu tư trúng thầu.

Giá điện trúng thầu đã thấp hơn mức trần giá điện tại hồ sơ mời thầu, nhưng không được công nhận là giá của hợp đồng mua bán điện, mà lại chỉ được sử dụng làm “giá điện tối đa” để tiếp tục đàm phán giảm giá điện giữa bên mua điện và nhà đầu tư là không hợp lý.
Vì vậy, nên sửa đổi khoản này theo hướng “giá điện trúng thầu là giá điện để Bên mua ký kết hợp đồng mua bán điện với nhà đầu tư trúng thầu.”
Công khai thông tin người nộp thuế
Khoản 1 Điều 100 quy định về công khai thông tin người nộp thuế trong các trường hợp trốn thuế, chây ỳ không nộp đúng thời hạn; nợ tiền thuế; vi phạm pháp luật về thuế…
Trong thực tế, có một số bên bán hàng ở tình trạng “không hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký” hoặc “bỏ trốn”, bên mua hàng đã trả tiền và đã có hóa đơn nhưng không được cơ quan thuế chấp thuận thì vẫn bị xuất toán. Các sai sót trên hoàn toàn không phải do bên mua nhưng khi cơ quan thuế công khai kết luận thanh tra thì có thể có tình trạng đã lợi dụng để làm ảnh hưởng đến uy tín của bên mua.
Vì vậy, để bảo vệ uy tín của doanh nghiệp nên sửa thành “sau khi đã hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế theo quy định mà người nộp thuế chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ, cơ quan quản lý thuế được công khai thông tin người nộp thuế. Trường hợp các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm việc công khai, đăng tải thông tin người nộp thuế sẽ phải chịu xử lý trách nhiệm theo quy định pháp luật liên quan.”
Giao dịch liên kết
Điều 13, 14 và 15 của Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về các phương pháp xác định giá giao dịch liên kết bao gồm so sánh giá giao dịch liên kết với giá giao dịch độc lập, so sánh tỷ suất lợi nhuận của người nộp thuế với tỷ suất lợi nhuận của các đối tượng so sánh độc lập, phân bổ lợi nhuận giữa các bên liên kết.
Khoản 3 Điều 16 quy định về mức tối đa tổng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ của người nộp thuế.
Các doanh nghiệp mặc dù có quan hệ liên kết nhưng về mặt pháp lý là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân độc lập, có mã số thuế riêng, có bộ máy riêng và hạch toán độc lập với nhau. Khi hợp đồng giữa các doanh nghiệp đã được đàm phán trên cơ sở ý chí tự nguyện, đã tuân theo trình tự nội bộ của từng bên theo Luật Doanh nghiệp, thực hiện nghĩa vụ tài chính đầy đủ theo quy định, nhưng vẫn bị hạn chế về “giá giao dịch”, “lợi nhuận” và “tổng chi phí lãi vay” là không bảo đảm nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” của Bộ luật Dân sự.
Vì vậy, nên sửa đổi quy định quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết theo hướng đối với hợp đồng giữa các công ty liên kết, pháp luật cần quy định cụ thể giới hạn tỷ suất lợi nhuận khoảng bao nhiêu % cho từng lĩnh vực, ngành nghề để các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện, thay cho phương pháp “so sánh giá”, “so sánh tỷ suất lợi nhuận”, “phân bổ lợi nhuận”. Mặt khác, nên bãi bỏ quy định về mức tối đa tổng chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.
TS.LS Đỗ Minh Ánh - Chuyên gia Tư vấn - Ban CS&PL - Hiệp hội DNDN Cựu Chiến binh Việt Nam