Song, như đã phân tích qua bài Tòa "bóc phốt" ngân hàng cho vay tiêu dùng với lãi suất vượt trần, phía ngân hàng yêu cầu bà H. phải thanh toán tiền vay và lãi suất vượt trần so với quy định của bộ luật Dân sự (20%/năm) nhưng không chứng minh được giữa ngân hàng và khách hàng có thỏa thuận riêng về áp dụng lãi vượt trần này.
Tuy nhiên, chính vụ án cũng cho thấy có nhiều bất cập cần thay đổi về áp dụng lãi suất hợp đồng cho vay thông qua thẻ tín dụng tiêu dùng trong thời gian qua.
Thực tế, nhiều vụ án liên quan đến mức lãi suất mà một số công ty tài chính, tổ chức tín dụng vượt cao hơn (thậm chí cao hơn rất nhiều) mức 20% mà bộ luật Dân sự quy định, dẫn đến khả năng trả nợ của những người đang khó khăn về mặt tài chính gần như không thể, nhưng các vụ án này tòa đều chấp nhận do ngân hàng chứng minh được có thỏa thuận lãi suất vượt trần này với khách hàng.
Song, việc quy định cho phép các tổ chức tín dụng áp lãi suất vượt trần, và mở tối đa, không có biên độ dừng lại liệu có phù hợp?

Nới lãi suất cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng là pháp luật đang bảo vệ bên chiếm ưu thế?
ẢNH: T.N
Ngân hàng cho vay lãi suất tự do: Luật bảo vệ quyền lợi ai?
Cụ thể, điều 468 bộ luật Dân sự 2015, quy định về lãi suất vay nêu lãi suất do các bên thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
Quy định khác của luật khác có liên quan, chính là theo điều 7 Nghị quyết số 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định: "Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, tòa án áp dụng quy định của luật Các tổ chức tín dụng, văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn áp dụng luật Các tổ chức tín dụng để giải quyết mà không áp dụng quy định về giới hạn lãi suất của bộ luật Dân sự năm 2005, bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định lãi, lãi suất".
Và điều 100 luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 giữ nguyên như điều 91 luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017: 1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. 2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật…
Cũng theo điểm g khoản 1 điều 12 Thông tư 18 năm 2024 của Ngân hàng Nhà nước, quy định "Thỏa thuận về việc cấp tín dụng cho chủ thẻ, bao gồm lãi suất có thể được nêu trong hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ hoặc tại văn bản thỏa thuận riêng".
Từ những quy định "mở" này, dường như các tổ chức tín dụng cho vay tiêu dùng thông qua hình thức cấp thẻ tín dụng đều áp dụng lãi suất vượt trần.
Về điều này, thạc sĩ Nguyễn Hữu Duyên (thẩm phán TAND khu vực 12 - tỉnh Đắk Lắk) chia sẻ: lãi, lãi suất trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng theo thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định pháp luật - theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng đó ấn định và niêm yết tại từng thời điểm nhưng phải đúng theo văn bản hướng dẫn do Ngân hàng Nhà nước quy định về lãi, lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi, lãi suất.
Nghĩa là, các tổ chức tín dụng muốn ấn định mức lãi suất phải dựa theo nguyên tắc, công thức tính lãi suất (lãi suất cho vay = lãi suất huy động vốn (lãi suất tiết kiệm cao nhất hoặc lãi suất tiền gửi trung dài hạn hoặc lãi suất cơ quan) + biên độ lãi suất (là biên độ lợi nhuận, là phần trăm chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, lãi suất huy động, thông thường không vượt quá 5%).
Ông Duyên nhấn mạnh Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chuyên môn, có chức năng ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ; tổng thể các biện pháp chính sách của Ngân hàng Nhà nước tác động làm thay đổi cung tiền và lãi suất, qua đó tác động đến tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm cho nền kinh tế của quốc gia.
"Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất trần, mức lãi suất ngắn hạn tối đa cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với khách hàng, nhưng chưa có văn bản nào Ngân hàng Nhà nước có quy định mức lãi suất ngắn hạn tối đa đối với các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, ngân hàng trong nước về hoạt động cho vay thông qua thẻ tín dụng tiêu dùng. Điều này không đảm bảo sự công bằng, dễ dẫn đến việc tùy nghi mức lãi suất cho vay thông qua thẻ tín dụng tiêu dùng các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, ngân hàng trong nước", ông Duyên phân tích.
Cần thay đổi tư duy trả nợ và tính lãi suất theo dòng tiền
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu (chuyên gia tài chính, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển thị trường tài chính và bất động sản Toàn Cầu), cho rằng cần cho phép ngân hàng cho vay vượt trần, bởi cho vay là hoạt động rủi ro và lãi suất là một hàm số của rủi ro. Rủi ro cao thì lãi suất cao. Nhưng áp dụng lãi suất như thế nào, và nó tác động quan trọng đến nền kinh tế và người đi vay thì cũng cần xem xét.
Thứ nhất, người đi vay ở thế bị động, họ có nhu cầu vay và thường phải chấp nhận lãi suất bên cho vay. Trong thị trường tín dụng, người cho vay ở vị trí "Seller market" (thị trường của người bán) và người đi vay ở thế yếu nhưng được bù trừ bởi luật cạnh tranh giữa các ngân hàng: bên vay sẽ chọn ngân hàng có lãi suất thấp.
Nhưng suy cho cùng, thị trường vay vẫn là thị trường của ngân hàng, nên ngân hàng vẫn chiếm ưu thế. Vì vậy ngân hàng nhà nước hoặc chính phủ phải có những quy định để tăng năng lực đàm phán của người dân với bên cho vay. Chẳng hạn có những chính sách tín dụng hợp lý để ngân hàng bám sát vào, hoặc các ngân hàng cần đưa ra bộ tiêu chí về các điều kiện cho vay, và trong đó để lãi suất ở mức phù hợp với định hướng của ngân hàng nhà nước.
Mặt khác, theo tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, ngân hàng ở Việt Nam đang quá tập trung vào tài sản thế chấp, đó là điều không phù hợp xu hướng quốc tế.
Theo xu hướng quốc tế, dòng tiền để trả nợ mới là nguồn trả nợ thứ nhất (Primary source of repayment), chứ không phải tài sản đảm bảo, và tài sản bảo đảm được xem là nguồn trả nợ thứ hai (Secondary source of repayment), nếu nguồn trả nợ thứ nhất không bảo đảm.
Thực tế người dân nhiều người không có tài sản đảm bảo nhưng họ có dòng tiền, có khả năng trả nợ và ý muốn trả nợ. Vì vậy, các ngân hàng phải thay đổi tư duy, cho vay tín chấp qua cho vay dựa trên dòng tiền. Điều này cũng cần có sự hỗ trợ của ngân hàng nhà nước theo định hướng mới. Do đó, vấn đề lãi suất cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp với phương pháp cho vay tín chấp.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng đối với cho vay cá nhân, cần áp dụng một tỷ lệ gọi là DTI (Debt to income) là tỷ lệ số tiền nợ chia cho thu nhập mỗi tháng.
Tỷ lệ đó thường ở mức 50% - 60% so với tổng thu nhập. Tức thu nhập 100 đồng, thì người vay sử dụng 50 - 60 đồng để trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng. Các ngân hàng nên đưa ra các tiêu chí tương tự, để khách hàng có thể tự thẩm định được khả năng vay, và để ngân hàng tư vấn cho khách hàng một cách minh bạch và an toàn.
Một điều hiển nhiên là khi khách hàng mất khả năng trả nợ thì sự thiệt hại sẽ đến cho cả hai phía: người đi vay và ngân hàng đều rơi vào tình trạng nợ xấu.
Về việc áp dụng mức lãi suất theo công thức tính lãi suất cho vay = chi phí vốn (chẳng hạn, lãi suất tiết kiệm bình quân cho một cùng một thời gian cho vay) + biên độ lợi nhuận, tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu nêu, không thể áp dụng biên độ chung cho tất cả loại vay, mà cần quy định tùy theo cho vay tín chấp hay thế chấp, số tiền vay và thời hạn vay.