Theo Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên, trong vài năm trở lại đây, ngành công nghiệp dược Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Cả nước hiện có 242 nhà máy sản xuất thuốc, trong đó 21 nhà máy đạt chuẩn EU-GMP tiêu chuẩn nghiêm ngặt của châu Âu và đã sản xuất được hơn 800 hoạt chất thuộc 13 nhóm thuốc thiết yếu theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Một dấu mốc quan trọng là Chiến lược phát triển ngành dược Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, hiện đã được thể chế hóa trong Luật Dược (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua. Mục tiêu đến năm 2030 là sản xuất trong nước 80% lượng thuốc tiêu thụ và chiếm 70% giá trị thị trường thuốc nội.
Tuy nhiên, thuốc sinh học - lĩnh vực được kì vọng sẽ thay đổi cục diện điều trị các bệnh nan y vẫn còn là “vùng trống” lớn. Hiện nay, Việt Nam chỉ có một cơ sở sản xuất thuốc sinh học và hai đơn vị đang trong quá trình nghiên cứu triển khai.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên phát biểu tại hội nghị. |
“Việt Nam hiện mới chỉ phối hợp thử nghiệm lâm sàng giai đoạn cuối, chưa làm chủ được từ khâu nghiên cứu ban đầu đến phát triển sản phẩm hoàn chỉnh. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã xây dựng được chuỗi sản xuất khép kín, giảm chi phí đáng kể nhờ cắt bỏ các khâu trung gian không cần thiết”, Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên chỉ rõ.
Cơ hội giảm chi phí điều trị ung thư
Thuốc sinh học đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong điều trị các bệnh phức tạp, đặc biệt là ung thư, tiểu đường, bệnh tự miễn và các bệnh hiếm gặp. Tuy nhiên, chi phí cho các loại thuốc này thường rất cao do quy trình sản xuất phức tạp, phụ thuộc vào công nghệ tiên tiến và nguồn nguyên liệu đặc thù.
“Việc chủ động sản xuất thuốc sinh học, nhất là nhóm thuốc điều trị bệnh mạn tính như ung thư, sẽ giúp người dân tiếp cận thuốc nhanh hơn và với chi phí hợp lý hơn, từ đó giảm gánh nặng điều trị”, Thứ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh.
Trong thời gian tới, ngành Dược sẽ tập trung triển khai theo các định hướng nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ sinh dược học tại Việt Nam: tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lí, bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư để thu hút mạnh mẽ các tổ chức/cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất thuốc; triển khai hiệu quả Chiến lược quốc gia phát triển ngành dược Việt Nam, Chương trình phát triển công nghiệp dược, dược liệu và Chương trình bảo đảm nguồn cung ứng vắc xin.
![]() |
Thuốc sinh học ngày càng phát triển đem lại cơ hội sống cho nhiều bệnh nhân. |
Đáng chú ý, ngành Dược sẽ triển khai các khu công nghiệp tập trung, ưu tiên cho khu công nghiệp sinh dược tại Thái Bình và Khu công nghệ cao y dược tại TP.HCM; tập trung đảm bảo nguồn cung ứng thuốc, nguyên liệu làm thuốc, đặc biệt đối với thuốc hiếm và thuốc có nguồn cung hạn chế; tăng cường quản lí chất lượng thuốc, kiểm tra, xử lí vi phạm và quy hoạch hệ thống kiểm nghiệm trên cả nước; hoàn thiện cơ chế quản lí giá thuốc để bình ổn thị trường dược phẩm; tăng cường kiểm tra, hậu kiểm để đảm bảo người dân tiếp cận thuốc chất lượng, hiệu quả, giá cả phù hợp; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy xuất khẩu thuốc, mĩ phẩm; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực của cán bộ, chuyên gia; duy trì đạt NRA cấp độ 3 đối với vắc xin và phối hợp để mở rộng đạt NRA đối với toàn bộ thuốc; đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành Dược.
Tạo hệ sinh thái cho phát triển thuốc sinh học
TS Tạ Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Quản lí Dược (Bộ Y tế) cũng cho rằng, việc chuyển hướng từ sản xuất thuốc generic (thuốc gốc) sang thuốc sinh học sẽ mở ra dư địa phát triển lớn cho doanh nghiệp trong nước.
“Nếu làm chủ được công nghệ và tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm sản xuất thuốc sinh học của khu vực Đông Nam Á”, ông Hùng kì vọng.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Cục Quản lí Dược sẽ tham mưu Bộ Y tế đề xuất chính sách thu hút đầu tư, đơn giản hóa thủ tục, bảo vệ sở hữu trí tuệ và phát triển hệ sinh thái hỗ trợ nghiên cứu - sản xuất.
Theo giới chuyên gia, thuốc sinh học là các sản phẩm y tế có chứa hoạt chất được sản xuất hoặc chiết xuất từ nguồn sinh học, như tế bào sống hoặc mô. Nhóm này bao gồm nhiều dạng như: vắc xin, máu và chế phẩm máu, chất gây dị ứng, tế bào soma, liệu pháp gene và các protein điều trị tái tổ hợp.
Với khả năng tác động sâu đến cơ chế bệnh lí, thuốc sinh học được xem là “cứu cánh” cho các bệnh phức tạp và khó điều trị, nhưng cũng là thách thức với hệ thống y tế bởi chi phí cao, yêu cầu công nghệ khắt khe.
Chính vì vậy, hướng đi mới trong sản xuất thuốc sinh học tại Việt Nam không chỉ mang ý nghĩa chiến lược về y tế, mà còn là bước tiến trong việc bảo đảm an ninh dược phẩm và chủ động ứng phó với các dịch bệnh tương lai.