Dữ liệu từ trang Polymarket cho thấy có 64% người tham gia khảo sát cho rằng Tổng thống Trump sẽ loại bỏ thuế chung 10% vào 2025 và 75% đang đặt cược vào việc Tổng thống Trump sẽ loại bỏ phần lớn thuế đối ứng trước thời hạn 90 ngày.
Trong đó, Việt Nam sẽ là một trong 4 quốc gia có xác suất thoả thuận thành công trước tháng 7. Tuy nhiên, các nguồn tin chính thống cho biết phía Mỹ sẽ đưa ra nhiều yêu cầu khó nhằn cho Việt Nam.
Tại chương trình "Data Talk | Macro Insight: Cập nhập số liệu kinh tế Việt Nam tháng 5 và chuyển biến đàm phán thuế quan" phát sóng ngày 11/6, ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank VCBF, cho biết hiện tại, thách thức lớn nhất của Việt Nam trong cuộc đàm phán là vấn đề hàng Trung Quốc "đội lốt" xuất xứ.
Ông Linh nêu rõ, việc Trung Quốc trung chuyển hàng hoá qua Việt Nam là vấn đề tương đối nhạy cảm và khó khăn đối với Việt Nam trong thời gian qua. Điều khó khăn nhất hiện nay là định nghĩa “hàng trung chuyển” cũng đang là vấn đề tranh cãi trong chính nội bộ nước Mỹ.
“Vẫn có những hàng hoá nhập nguyên vật liệu từ Trung Quốc, sau đó chúng ta thực hiện các khâu như lắp ráp, kiểm định cuối cùng rồi mới xuất qua Mỹ. Dù giá trị gia tăng của những hàng hoá này không cao, nhưng vẫn sử dụng lao động, có nhà máy tại Việt Nam và có khách hàng là các tập đoàn Mỹ hoặc đối tác thương mại tin cậy của Mỹ”, ông nói.
Theo chuyên gia VCBF, việc Mỹ có coi những hàng hoá trên là hàng trung chuyển hay không vẫn là một ẩn số lớn. “Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng vẫn có sự mâu thuẫn ngay trong nội bộ của chính quyền Tổng thống Trump. Vẫn có những thành viên có thái độ rất ‘diều hâu’ trong chính sách thương mại, đặc biệt đối với Việt Nam”, ông nhận xét.
Ông Linh nhấn mạnh Việt Nam sẽ gặp bất lợi nếu những phe "diều hâu" của Mỹ đưa các dữ liệu thương mại cứng lên bàn đàm phán thuế quan. Cụ thể, dữ liệu thương mại tháng 5 cho thấy kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ tăng rất mạnh và tương ứng là kim ngạch Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc cũng tăng rất mạnh. Thặng dư thương mại hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ đã tăng ở mức kỷ lục trong tháng 5.

Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ Vietcombank VCBF. (Ảnh: VNB).
Dự báo kịch bản thuế quan đối với Việt Nam, ông Nguyễn Hoàng Linh cho rằng Mỹ vẫn có thể áp dụng mức thuế cao, có thể không phải 46% mà giảm xuống mức 30%, vẫn là mức cao nhưng không gây đứt gãy chuỗi cung ứng của Mỹ.
Làm rõ hơn về quan điểm này, ông lấy ví dụ với mức thuế 30% áp dụng lên những hàng hoá như quần áo hoặc giày dép sẽ được tính trên giá xuất xưởng tại nhà máy ở Việt Nam và chỉ bằng khoảng 25 - 30% giá bán lẻ của nhóm hàng hoá này tại cửa hàng ở Mỹ.
Như vậy, mức thuế tăng thêm 30% cũng chỉ tương ứng tối đa khoảng 10% so với giá bán lẻ. Phần chi phí tăng thêm này sẽ được chia sẻ bởi rất nhiều bên trong chuỗi cung ứng, từ người tiêu dùng, nhà bán lẻ cho đến nhà xuất khẩu hoặc nhà cung cấp nguyên vật liệu...
“Rõ ràng điều này không tạo ra sự đứt gãy và chính quyền Mỹ hoàn toàn biết được điều đó, có thể xem xét áp một mức thuế cao. Việc này cũng là để tạo lợi thế cho Mỹ tiếp tục đàm phán với các quốc gia trong tương lai. Đàm phán thương mại không phải là câu chuyện chỉ diễn ra vài tháng, mà thường kéo dài hàng năm”, ông Linh nhận định.
Nhiều rủi ro khi Mỹ áp thuế theo ngành hàng
Cùng chia sẻ quan điểm về khả năng có một bức tranh tích cực về vấn đề thuế quan của Mỹ đối với Việt Nam, ông Trần Ngọc Báu, CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup, nhận định vấn đề lớn nhất trong câu chuyện đàm phán thương mại xoay quanh hai yếu tố then chốt, bao gồm: trọng tâm chính của Mỹ vẫn là Trung Quốc và Việt Nam đang phụ thuộc vào Trung Quốc.
Theo ông Báu, Việt Nam cần 5 - 10 năm để tách khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Vì vậy, quá trình xử lý giữa Việt Nam - Mỹ sẽ là một lộ trình tương đối dài và cần có một mức thuế đủ cao để vừa có thể “đe doạ”, vừa đủ lộ trình để những vấn đề liên quan đến đàm phán về nguồn gốc xuất xứ diễn ra trong 1 - 2 năm tới và dứt điểm trong vòng 5-10 năm tới.
“Tôi cho rằng kết quả đàm phán của Việt Nam sẽ khó có thể thuận lợi hoàn toàn. Quá trình xử lý giữa Việt Nam và Mỹ cũng không phải là một vài tháng tới mà có thể kéo dài tới 1 - 2 năm. Do đó, mức thuế cũng phải đủ để gây khó chịu cho Việt Nam và để Việt Nam sẵn sàng tiếp tục ngồi vào các cuộc đàm phán trong tương lai”, ông Báu nhận định.

Ông Trần Ngọc Báu, CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup. (Ảnh: VNB).
Ông Báu cũng nhắc đến một rủi ro khác lớn mà Việt Nam cần quan sát kỹ đó là việc Mỹ sẽ tách ngành hàng để đánh thuế. Trước đó, bàn luận về vấn đề này, ông Nguyễn Hoàng Linh đã nêu rõ hiện nay, Mỹ đang chọn lọc khoảng 5 - 6 mặt hàng chiến lược mà họ cho rằng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và sẽ có mức thuế riêng cho các mặt hàng này (thuế áp theo ngành).
Những nhóm hàng hoá nằm trong nhóm rủi ro cao thường liên quan đến luyện kim, sắt thép, xe ô tô, tàu thuỷ... Trong đó, xe ô tô liên quan đến ngành công nghiệp truyền thống, là biểu tượng của nước Mỹ. Đối với ngành đóng tàu, đây là ngành liên quan đến quốc phòng và từng là sự tự hào của nước Mỹ, nhưng hiện nay, Mỹ chỉ đóng được chưa đến 10 con tàu mỗi năm. Trong khi đó, cách đây hai năm, Trung Quốc đã đóng gần 2.000 con tàu mỗi năm, một con số rất lớn so với Mỹ.
Theo ông Linh, điều này đặt ra cho Mỹ một rủi ro rằng trong bối bối cảnh chính trị toàn cầu đang diễn biến rất phức tạp, an ninh quốc gia của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nếu có một sự kiện cực đoan xảy ra khiến chuỗi cung ứng đứt gãy.
Ngoài những mặt hàng nêu trên, ông Linh cũng kiến nghị Việt Nam cần xem xét thêm nhóm hàng điện tử vì đây cũng là một trong những nhóm hàng đang được xem xét để áp thuế theo ngành và Việt Nam sẽ có thể chịu rủi ro trong tương lai.