Tại dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) mới nhất, Bộ Tài chính trình Chính phủ nhiều quy định mới trong hệ thống thuế. Một trong những nội dung được quan tâm là mức giảm trừ gia cảnh.
Tại dự thảo tờ trình Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hồi tháng 7, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án điều chỉnh mức giảm trừ để trình cấp thẩm quyền xem xét.
Ở phương án 1, Bộ này tính toán điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng CPI theo quy định. Theo số liệu của Cục Thống kê, chỉ số CPI từ năm 2020 đến năm 2025 lũy kế dự kiến tăng 21,24% thì xem xét điều chỉnh tương ứng như sau: Mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế từ 11 triệu đồng/tháng lên khoảng 13,3 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ cho người phụ thuộc từ 4,4 triệu đồng/tháng lên 5,3 triệu đồng/tháng.
Với phương án 2, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Theo số liệu của Cục Thống kê thì biến động về chỉ số thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người từ năm 2020 đến năm 2025 lần lượt tăng 40% và 42%.
Vì vậy có thể điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế từ 11 triệu đồng/tháng lên khoảng 15,5 triệu đồng/tháng; người phụ thuộc từ 4,4 triệu đồng/tháng lên 6,2 triệu đồng/tháng.
Mức giảm trừ gia cảnh không phân biệt địa bàn sống
Tuy nhiên, tại dự thảo lần này, mức giảm trừ cố định không được đưa vào luật. Thay vào đó, Bộ Tài chính đề xuất giao Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh để đảm bảo linh hoạt, chủ động điều chỉnh phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Sau giảm trừ gia cảnh và chi phí tính thuế khác, người nộp sẽ chịu các mức thuế suất theo bậc lũy tiến. Tại dự luật, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án rút biểu thuế bậc thang lũy tiến về còn 5 bậc. Theo đó, mức thuế tối thiểu 5% tương ứng với thu nhập tính thuế trong tháng là 10 triệu đồng. Thuế suất cao nhất vẫn là 35%, với thu nhập tính thuế từ 100 triệu đồng.
Bộ Tài chính nêu, theo quy định hiện hành, cá nhân được trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, trừ đi mức giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định... số còn lại mới là thu nhập làm căn cứ tính thuế.
Luật Thuế Thu nhập cá nhân (áp dụng từ ngày 1/1/2009) quy định mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Thu nhập cá nhân áp dụng từ ngày 1/7/2013 quy định mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng tháng.
Đồng thời, trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản này phù hợp với biến động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.
Từ năm 2020, mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.
Việc nâng mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, theo Bộ Tài chính, đã góp phần giảm bớt nghĩa vụ cho người nộp thuế.
Với mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng như hiện nay, người có thu nhập từ tiền lương, tiền công ở mức 17 triệu đồng/tháng (nếu có một người phụ thuộc) hay mức 22 triệu đồng/tháng (nếu có 2 người phụ thuộc) sau khi trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp... thì chưa phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Quy định về giảm trừ cho bản thân người nộp thuế, giảm trừ cho người phụ thuộc mà người nộp thuế phải nuôi dưỡng thể hiện nguyên tắc “công bằng" và "khả năng nộp thuế", có tính đến đặc thù, hoàn cảnh của người nộp thuế: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn, nhiều người phụ thuộc hơn thì nộp thuế ít hơn, người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
“Về bản chất, quy định về giảm trừ trước khi tính thuế đảm bảo nguyên tắc cá nhân cần phải có một mức thu nhập nhất định nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như: ăn, ở, đi lại, học tập, khám chữa bệnh… Vì thế, thu nhập trên ngưỡng này mới phải nộp thuế”, Bộ Tài chính nêu.
Việc áp dụng các khoản giảm trừ còn hướng tới mục tiêu loại trừ các đối tượng có thu nhập thấp ra khỏi diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Hiện cũng có ý kiến cho rằng, cần quy định mức giảm trừ gia cảnh theo mức lương tối thiểu vùng, mức giảm trừ gia cảnh ở các đô thị, thành phố lớn cần phải cao hơn ở khu vực nông thôn, miền núi do chi phí đắt đỏ hơn.
“Tuy nhiên, mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, người phụ thuộc của người nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân là mức cụ thể theo mặt bằng chung của xã hội, không phân biệt người có thu nhập cao hay thấp, với nhu cầu tiêu dùng khác nhau và sống ở các địa bàn khác nhau”, Bộ Tài chính nhấn mạnh.

Bộ Tài chính cho biết giảm trừ gia cảnh không phân biệt nhu cầu tiêu dùng, nơi sống (Ảnh: Mạnh Quân).
Các nước áp dụng mức giảm trừ gia cảnh ra sao?
Theo cơ quan soạn thảo, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ở các nước, gồm cả nước phát triển và đang phát triển chỉ quy định mức giảm trừ gia cảnh chung, áp dụng thống nhất, không phân biệt theo địa bàn và các bộ phận dân cư.
Đối với cá nhân làm việc tại các địa bàn khó khăn, Luật đã quy định không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân khoản trợ cấp khu vực, trợ cấp thu hút, trợ cấp chuyển vùng... nhằm hỗ trợ người lao động cũng như thu hút cá nhân làm việc tại các địa bàn này.
Về phân loại, các khoản giảm trừ thu nhập cá nhân các nước áp dụng được chia thành 3 nhóm: giảm trừ chung cho cá nhân người nộp thuế; các khoản giảm trừ cho người phụ thuộc, như giảm trừ cho con, cho vợ hoặc chồng, bố, mẹ... và các khoản giảm trừ có tính chất đặc thù (giảm trừ cho chi phí y tế, giáo dục...).
Phương thức quy định về mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế cũng khác nhau giữa các quốc gia.