
Chiều 18/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa với tỷ lệ tán thành cao, đạt 408/420 đại biểu (chiếm 85,36%).
Đây được đánh giá là bước đột phá quan trọng trong quản lý rủi ro và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2026, mở ra nhiều cơ hội đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý.
Luật sửa đổi lần này đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong chính sách quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam. Với cách tiếp cận dựa trên quản lý rủi ro, truy xuất nguồn gốc số hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại, Luật đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm, hàng hóa chất lượng, an toàn và minh bạch.
Một trong những điểm nổi bật của Luật là chuyển đổi phương thức quản lý từ hành chính sang dựa trên mức độ rủi ro. Theo Điều 5 của Luật, sản phẩm, hàng hóa được phân loại thành ba nhóm: rủi ro thấp, rủi ro trung bình và rủi ro cao. Tiêu chí đánh giá dựa trên tác động đến sức khỏe con người, môi trường, khả năng kiểm soát chuỗi cung ứng cũng như cảnh báo từ các tổ chức quốc tế.
Tùy theo mức độ rủi ro, các sản phẩm, hàng hóa sẽ được áp dụng các biện pháp quản lý tương ứng, từ tự công bố tiêu chuẩn đến bắt buộc chứng nhận hợp quy. Cách tiếp cận này không chỉ phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn giúp tạo điều kiện thuận lợi để hàng hóa Việt Nam có “giấy thông hành” mở rộng ra thị trường trong khu vực và toàn cầu.
Một điểm đổi mới quan trọng khác là việc luật hóa khái niệm “hộ chiếu số của sản phẩm”. Khoản 8 Điều 3 của Luật quy định rõ, đây là tập hợp các thông tin liên quan đến sản phẩm và chuỗi cung ứng, được lưu trữ dưới dạng mã vạch hoặc các phương thức phù hợp khác, đảm bảo có thể truy cập và đọc được thông qua thiết bị kỹ thuật số.
Điều này giúp người tiêu dùng và cơ quan quản lý dễ dàng truy xuất nguồn gốc, quy trình sản xuất, đánh giá chất lượng sản phẩm.
Đặc biệt, Điều 6d quy định, truy xuất nguồn gốc là bắt buộc đối với sản phẩm, hàng hóa thuộc nhóm có mức độ rủi ro cao, với lộ trình thực hiện do bộ và các cơ quan liên quan xác định.
Việc áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc số không chỉ nâng cao tính minh bạch mà còn góp phần ngăn ngừa gian lận thương mại, tăng cường niềm tin của người tiêu dùng vào sản phẩm trong nước.
Đối với hàng hóa nhập khẩu thay vì phải dán nhãn phụ, dấu công bố hợp quy vật lý lên trực tiếp sản phẩm như trước đây, thì nay sẽ áp dụng nhãn điện tử trên bao bì sản phẩm hoặc tài liệu kèm theo sản phẩm.

Bộ KH&CN cho biết, sẽ chuyển đổi số toàn diện công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đây là giải pháp có tính đột phá, giúp cho việc tăng cường giám sát, hậu kiểm được khả thi. Xây dựng một nền tảng số quốc gia duy nhất về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, nền tảng số này do Nhà nước đầu tư, là môi trường quản lý chính thức, đồng thời là môi trường tác nghiệp của các chủ thể.
Luật quy định việc thiết lập một nền tảng thông tin dữ liệu quốc gia về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, kết nối với hệ thống giám sát chất lượng quốc gia, quy định rõ trách nhiệm cập nhật, khai thác và bảo vệ dữ liệu của doanh nghiệp, cơ quan quản lý và đơn vị vận hành.
Việc đánh giá, công bố mức độ rủi ro của sản phẩm phải bắt buộc thực hiện trên nền tảng số duy nhất này, nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, dễ cho việc giám sát tập trung của quản lý Nhà nước bằng AI, dễ cho người dân giám sát.
Trước đây là phân tán ở các bộ, ngành nên rất khó theo dõi, giám sát. Dùng công nghệ để quản lý, và dùng nhiều công nghệ hơn nữa để quản lý. Nền tảng số quốc gia là Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp chỉ kết nối, không tốn kém, nên sẽ là bắt buộc lên môi trường số. Mô hình này tăng hiệu lực quản lý và phù hợp xu thế toàn cầu. Doanh nghiệp chủ động công bố sản phẩm trên nền tảng số, cung cấp đầy đủ hồ sơ và thông tin về chất lượng, an toàn sản phẩm, chịu trách nhiệm về nội dung công bố và hợp tác với cơ quan quản lý trong giám sát và kiểm tra sau công bố.