Kinh doanh

Xanh hóa ngành dệt may, vươn mình thoát khỏi bẫy gia công

Xanh hóa trở thành xu hướng có tính bắt buộc

Xu hướng “xanh hóa” đã và đang chuyển dịch nhanh chóng từ tự nguyện sang bắt buộc tại các thị trường lớn, đặc biệt là EU và Mỹ. Đây không còn là một lợi thế cạnh tranh “có thì tốt” mà đã trở thành một “tấm vé” bắt buộc để được vào cửa. Ta có thể thấy rõ thông qua ba chính sách lớn gần đây như: Cơ chế điều chỉnh các bon biên giới CBAM, thực chất đây là thuế các bon, đánh vào các hàng hóa nhập khẩu vào EU dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất (ban đầu áp dụng cho sắt thép, nhôm, xi măng, phân bón, điện, hydro), giai đoạn báo cáo đã bắt đầu từ tháng 10/2023.

Giai đoạn thu phí đầy đủ sẽ bắt đầu từ năm 2026); trong thời gian ngắn nữa sẽ áp dụng vào thị trường dệt may). Quy định Chống phá rừng của EU (EUDR), theo đó EUDR cấm nhập khẩu các sản phẩm (như cà phê, ca cao, cao su, gỗ, đậu nành, dầu cọ...) nếu chúng có liên quan đến việc gây mất rừng hoặc suy thoái rừng sau ngày 31/12/2020. Quy tắc Công bố thông tin khí hậu của Mỹ (SEC) yêu cầu các công ty niêm yết tại Mỹ phải công bố thông tin chi tiết về rủi ro khí hậu, lượng phát thải khí nhà kính (bao gồm cả phát thải từ chuỗi cung ứng).

Riêng đối với dệt may, xanh hóa đang được triển khai mạnh mẽ nhất và có xu hướng kiểm soát chặt chẽ nhất, từ đó buộc ngành công nghiệp này phải chuyển đổi toàn bộ quy trình từ thiết kế, sản xuất, cho đến khi sản phẩm bị vứt bỏ. Mục tiêu chính là chấm dứt mô hình “thời trang nhanh” và buộc ngành dệt may phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ vòng đời sản phẩm của mình. Các công cụ mà các thị trường lớn đang áp dụng, có thể kể đến là Chiến lược Dệt may bền vững.

Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu vào EU bắt buộc phải tuân thủ các quy định như  thiết kế sinh thái bảo đảm độ bền, có thể sửa chữa, tuân thủ hàm lượng tái chế tối thiểu, không hóa chất độc hại và giảm vi nhựa. Tuân thủ quy định về EPR trong việc thu gom, tái chế các sản phẩm may mặc. “Hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số- DPP” là công cụ để chống tẩy xanh, yêu cầu mỗi sản phẩm phải có mã QR hoặc tem kỹ thuật số để có thể hiển thị được “lý lịch” của sản phẩm như nhà máy sản xuất, nơi trồng bông, nhà máy dệt, nhà máy nhuộm; tỷ lệ vật liệu tái chế; các hóa chất đã sử dụng; hướng dẫn sửa chữa và tái chế…

Thị trường Mỹ yêu cầu “minh bạch là trên hết” như công khai chuỗi cung ứng, minh bạch phát thải, minh bạch về tác động bao gồm lượng điện, hóa chất đã sử dụng, lượng phát thải, nguồn gốc vật liệu ….

det may 2.jpg
Với ngành dệt may, xanh hóa đang được triển khai mạnh mẽ nhất và có xu hướng kiểm soát chặt chẽ nhất. Ảnh: Nam Khánh

Xanh hóa là một xu hướng đã trở thành bắt buộc ở các cấp độ mà mạnh nhất là cấp độ vĩ mô, có sự can thiệp của nhà nước như các nước EU và Mỹ, và cùng với nó là những yêu cầu ở cấp độ vi mô với các yêu cầu từ chuỗi cung ứng đặc biệt là từ các nhà đầu tư và người tiêu dùng.

Bản chất xanh hóa trong chuỗi cung ứng hiện nay chính là việc giảm thiểu các tác động từ khai thác, sản xuất nguyên vật liệu, nhiên liệu đến việc sản xuất sản phẩm hàng hóa, rồi đến phân phối, tiêu dùng, rồi qua thải bỏ và thu gom, tái sử dụng, tái chế để quay trở lại sản xuất, khép kín vòng đời vật liệu. Nhưng cũng có thể thấy đây là một rào cản lớn đối với thương mại dựa trên yêu cầu xanh hóa hay có thể nói là “rào cản xanh” một rào cản đa mục đích, trong đó có mục đích là giảm ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, hướng đến cuộc sống hài hòa với thiên nhiên.

Những thách thức chính trong chuyển đổi xanh ngành dệt may

Có thể thấy, đây là một xu hướng đã chuyển từ tự nguyện sang bắt buộc. Và vì bắt buộc nên nó trở thành thách thức lớn không chỉ đến từ chuỗi cung ứng mà còn đến từ cơ quan quản lý, khi không đáp ứng yêu cầu “xanh hóa” như đã nói ở trên, thì hàng hóa bị đánh thuế cao, thậm chí không được phép nhập khẩu. Những thách thức có thể nhận thấy ngay đó là:

- Đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi năng lượng, như chúng ta biết ngành dệt (đặc biệt là khâu dệt, nhuộm, hoàn tất) tiêu thụ rất nhiều điện và nhiệt. Với yêu cầu xanh hóa, các nhà máy bị buộc phải chuyển sang năng lượng tái tạo (như điện mặt trời áp mái, mua điện sạch) để giảm dấu chân các bon. Nhưng để đáp ứng được điều này, không phải một sớm một chiều, nhất là phụ thuộc vào chính sách về năng lượng xanh của Chính phủ và sự chuyển đổi này đang diễn ra rất chậm chạp, tốn kém. Trong khi đó cơ chế cũng như đầu tư cho tự sản xuất năng lượng của các cơ sở sản xuất (điện áp mái …) còn nhiều vấn đề chưa thể triển khai.

- Đáp ứng yêu cầu xanh hóa khi sử dụng nước và hóa chất là điều khó khăn nhất, đặc biệt là đối với công đoạn nhuộm. Các nhà máy phải đầu tư hệ thống xử lý nước thải đắt tiền, công nghệ nhuộm tiết kiệm nước, và loại bỏ hoàn toàn các hóa chất độc hại bị cấm.

- Đáp ứng các yêu cầu về tuần hoàn tài nguyên (áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn) phụ thuộc vào nhiều bên, nhất là từ chính sách của nhà nước trong việc khép kín vòng đời vật liệu mà yêu cầu về thu gom, xử lý, tái chế rác thải đang gặp rất nhiều khó khăn.  Thứ đến là phải chuyển đổi công nghệ để có thể tái chế và sử dụng vật liệu tái chế trong ngành dệt may. Trong khi đó, hiện nay phần lớn đồ dệt may sau tiêu dùng, vải vụn (vải thừa sau khi cắt) bị đem đi chôn lấp hoặc đốt. Các quy định mới yêu cầu phải tái chế số vải vụn này thành sợi mới để đưa lại vào sản xuất.

Giải pháp xanh hóa đối với yêu cầu xử lý nước thải

Xử lý nước thải là vấn đề nan giải, có thể thấy là nước ta có lượng nước rất “dồi dào” lại nhiều con sông, gần biển, lượng mưa lớn… nên các doanh nghiệp đã “chủ quan” đầu tư ở mức thấp nhất cho hệ thống xử lý nước thải, do vậy mà tình trạng ô nhiễm do nước thải dệt nhuộm luôn là nỗi bức xúc lớn trong xã hội, điển hình là “Điểm nóng” KCN Dệt may quanh khu vực Sông Bắc Hưng Hải; Làng nghề Phương La (Thái Bình); Làng nghề Dương Nội (Hà Nội).

Giải pháp trước mắt đó là đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý nước thải đáp ứng yêu cầu của xanh hóa đối với các khu công nghiệp (KCN). Đối với những nhà máy dệt nhuộm bên ngoài KCN cần khẩn cấp di dời vào KCN có đủ năng lực xử lý nước thải.

Giải pháp lâu dài đó là phát triển nguyên liệu tự nhiên, phát triển nguyên liệu thay thế, ứng dụng công nghệ tuần hoàn nước hoặc ít sử dụng nước thậm chí không sử dụng nước; đồng thời ứng dụng công nghệ giảm hóa chất trong dệt nhuộm.

Những hóa chất độc hại cần bị cấm sử dụng ngay từ đầu nguồn chuỗi giá trị, hoạt động này trước hết là từ sự chủ động của các Hiệp hội doanh nghiệp nhưng luôn cần sự đồng hành và luật hóa của Nhà nước. Có thể tham khảo và tuân thủ danh mục chất cấm của các nhãn hàng lớn như Nike, Adidas, Uniqlo... Doanh nghiệp cũng cần phải chủ động sử dụng thuốc nhuộm và hóa chất phụ trợ tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế như Bluesign hoặc OEKO-TEX.

Doanh nghiệp cũ phải chuyển đổi, còn doanh nghiệp mới phải đầu tư công nghệ hiện đại trong sản xuất hàng dệt may, như ứng dụng công nghệ nhuộm không cần nước hoặc cần rất ít nước hoặc nhuộm tiết kiệm nước; đồng thời áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất như tuần hoàn nước; tuần hoàn nhiệt. Nước thải sau khi xử lý đạt chuẩn không phải để xả ra sông, mà là để đưa ngược lại quy trình sản xuất (tái sử dụng cho khâu giặt, hoặc thậm chí là nhuộm màu nhạt). Đầu tư công nghệ xử lý đặc biệt là xử lý bậc cao như lọc màng (MBR, RO) để khử muối và màu còn sót lại.

Những mô hình xanh hóa khả thi ở Việt Nam

det may 3.jpg
Việt Nam cần phải thoát khỏi cái bẫy gia công trong ngành dệt may của thế giới. Ảnh: Nam Khánh

Việt Nam cần phải thoát khỏi cái bẫy gia công trong ngành dệt may của thế giới, cần phải chuyển đổi mạnh mẽ để có thể vươn mình lên được. Để làm được điều đó, chúng ta cần phải chủ động nguyên liệu, đất nước chúng ta có thế mạnh trong phát triển nguyên liệu tự nhiên từ bông, sợi đến tơ tằm; chúng ta cũng cần phải đầu tư chủ động về vải và nhuộm thế hệ mới, hiện đại và thân thiện với môi trường. Có như vậy chúng ta mới có thể vươn mình trong ngành dệt nhuộm được. Các mô hình mà chúng ta cần tiếp tục phát triển đó là

- Cộng sinh công nghiệp tại các KCN Dệt may. Thay vì mỗi nhà máy tự xử lý mọi thứ, các nhà máy trong cùng một KCN sẽ liên kết với nhau để trao đổi tài nguyên. “Chất thải” của nhà máy này trở thành “đầu vào” của nhà máy khác. Điển hình của mô hình này là Mô hình KCN Sinh thái (Eco-Industrial Park) như tại DEEP C (Hải Phòng) hoặc KCN Rạng Đông - Aurora IP (Nam Định)[8], nơi được quy hoạch bài bản cho dệt nhuộm. Các KCN này đã được xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung lớn, công nghệ cao, đảm bảo tất cả nước thải từ các nhà máy đều đạt chuẩn A trước khi xả (hoặc tái sử dụng); đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời dùng chung, cung cấp điện sạch cho các nhà máy….

- Phát triển Trung tâm Tái chế sợi, có thể nói đây là “trái tim” của kinh tế tuần hoàn dệt may, giải quyết vấn đề rác thải vải vụn. Thay vì vứt bỏ hoặc “hạ cấp” (downcycle) vải vụn thành giẻ lau, mô hình này sử dụng công nghệ hóa học hoặc cơ học để tái chế vải vụn (cả trước và sau tiêu dùng) trở lại thành xơ/sợi có chất lượng tương đương sợi nguyên sinh. Điển hình là  Re:newcell (Thụy Điển) có nhà máy Circulose, thu gom quần áo cotton cũ, hòa tan chúng thành bột (pulp), và tạo ra sợi Circulose mới 100% tái chế. Worn Again (Anh) đã phát triển công nghệ có thể tách và tái chế cả vải pha (polyester/cotton), vốn là loại vải khó nhất. Ở Việt Nam, đã bắt đầu phát triển như Sợi Thế Kỷ là nhà sản xuất nhượng quyền thương hiệu REPREVE cho mặt hàng sợi sử dụng nguyên liệu tái chế tại Việt Nam.

- Sửa chữa, tân trang và thu hồi là mô hình tập trung vào việc kéo dài tuổi thọ sản phẩm, đi ngược lại với “thời trang nhanh”. Theo đó, các thương hiệu chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình ngay cả sau khi bán, bằng cách cung cấp dịch vụ sửa chữa, thu hồi sản phẩm cũ để tân trang. Điển hình như Patagonia's “Worn Wear” Program đã khuyến khích khách hàng mang đồ cũ đến sửa (họ có trung tâm sửa chữa lớn nhất Bắc Mỹ). Họ cũng thu hồi, giặt sạch và bán lại đồ “second-hand” của chính mình. Hay The North Face “Renewed” đã thu hồi sản phẩm lỗi, hỏng, làm mới và bán lại với giá rẻ hơn….

- Thúc đẩy thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) trong ngành dệt may khi mà hiện nay EPR đối với ngành dệt may đang trở thành một điều kiện để nhập khẩu vào các nước Châu Âu, thông qua việc đóng phí EPR của nhà nhập khẩu, nếu đã thực hiện EPR thì sẽ dễ dàng thâm nhập vào EU với những lợi thế về giá cả do phải đóng phí EPR thấp. Việt Nam có lợi thể là đã có chính sách EPR bắt buộc từ 2020, nhưng đối với sản phẩm may mặc, EPR ở Việt Nam mới yêu cầu nhà sản xuất sản phẩm may mặc đóng 1.500 đồng/1kg nhựa sử dụng để sản xuất sản phẩm may mặc (trách nhiệm đóng góp tài chính để hỗ trợ xử lý chất thải rắn sinh hoạt) mà chưa yêu cầu họ thu gom, tái chế. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi EPR để có thể chuyển trách nhiệm đóng tiền thành trách nhiệm thu gom, tái chế sản phẩm may mặc. Nhưng vấn đề đặt ra là tỷ lệ tái chế bắt buộc đối với ngành dệt may là bao nhiêu?

Theo thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam thì hiện nay, thì sản xuất vải trong nước đạt khoảng 2,3 tỷ m²/năm, đáp ứng khoảng 25% nhu cầu thị trường nội địa. Như vậy, nhu cầu sử dụng vải ở nước ta khoảng 9,2 tỷ m2/năm. Phần lớn được gia công, xuất khẩu, lượng vải tiêu thụ ở thị trường trong nước khoảng 10%-15% thì lượng vải sử dụng khoảng 1 tỷ m2/năm, tương đương với 150.000 tấn vải được tiêu thụ cho thị trường nội địa.

Theo số liệu ở trên, lượng vải ở Việt Nam thải hằng năm khoảng 500.000 tấn. Trong khi đó lượng vải tiêu thụ để sản xuất trong nước khoảng 150.000 tấn. Do vậy, tỷ lệ tái chế bắt buộc có thể xác định từ 5% đến 10% tính trên tổng khối lượng vải sử dụng, tức là buộc phải thu gom khoảng 7.500 tấn đến 15.000 tấn mỗi năm là khả thi.

Vì vậy, trong lần sửa đổi các quy định về EPR hiện nay, thì việc chuyển sản phẩm may mặc thuộc diện phải đóng góp tài chính tại mục 6.3 (Quần, áo, mũ, tất, găng tay các loại) lên Phụ lục XXII để tái chế với lộ trình chuẩn bị từ 1-2 năm và bắt đầu với tỷ lệ tái chế bắt buộc là 5% đến 10% mỗi năm sẽ thúc đẩy việc thu gom các sản phẩm may mặc thải bỏ. Với sự chuyển đổi này, sẽ góp phần thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn đối với ngành may mặc, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, nâng cao hình ảnh ngành may mặc Việt Nam và có thể tạo ra lợi nhuận hàng ngàn tỷ đồng và hàng ngàn việc làm mỗi năm.

Vai trò của Nhà nước và sự chủ động của doanh nghiệp

Nhà nước phải luôn là người đồng hành và đôi khi là bà đỡ cho các doanh nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp. Nhưng Nhà nước cũng phải là trọng tài là người giám sát xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, xanh hóa trong dệt nhuộm. Có như vậy, chúng ta mới chuẩn hóa được công nghiệp dệt nhuộm, đủ lực vươn mình, thoát khỏi bẫy gia công và trở thành ngành mũi nhọn ngang tầm thế giới.

Nhà nước cần thúc đẩy tín dụng xanh, trái phiếu xanh để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tài chính, đủ bù đắp cho sự tốn kém và chậm lãi nếu đầu tư mạnh vào xanh hóa dệt may. Đặc biệt là nhà nước phải xanh hóa ngành điện và hỗ trợ KCN, các nhà máy lớn đầu tư điện mặt trời, điện gió để sử dụng trong KCN.

Nhà nước phải làm tốt việc cảnh báo sớm cho ngành dệt may về những biến động, những yêu cầu xanh hóa của các thị trường (ngay cả khi đang còn dự thảo) về các thông tin và hướng dẫn kịp thời cho doanh nghiệp về các rào cản kỹ thuật mới từ thị trường (như CBAM, EUDR, DPP của EU) để họ chuẩn bị và thích ứng, thay vì bị động.

Nhà nước phải hỗ trợ các viện nghiên cứu, trường đại học để tìm kiếm các giải pháp tái chế, nhuộm sạch phù hợp với điều kiện Việt Nam, là cầu nối giữa doanh nghiệp, viện, trường đại học trong hoạt động đào tạo nhân lực, nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ.

Nhưng Nhà nước không thể vỗ tay với một bàn tay được, ngành dệt may, doanh nghiệp dệt may, nhuộm phải cùng vỗ tay với nhà nước để có những nhịp điệu đồng thuận cho sự phát triển.

Doanh nghiệp phải ngừng xem chi phí bảo vệ môi trường (hệ thống xử lý nước thải, hóa chất sạch) là một “gánh nặng”, mà phải coi đó là một “khoản đầu tư bắt buộc” để giữ được đơn hàng và tồn tại lâu dài. “Xanh hóa” không còn là một hoạt động để “làm đẹp” hình ảnh, mà nó đã trở thành “giấy phép” để được xuất khẩu vào các thị trường lớn; là sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm, đầu tư các máy móc thế hệ mới (tiết kiệm nước, điện), lắp đặt điện mặt trời áp mái, và xây dựng hệ thống xử lý nước thải tuần hoàn (tái sử dụng nước, tuần hoàn tái sử dụng nhiệt …).

Đồng thời phải minh bạch hóa ngay chuỗi cung ứng để luôn sẵn sàng cho các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc; phải biết rõ nguyên liệu (bông, sợi) của mình từ đâu ra, hóa chất mình dùng có bị cấm hay không…. Doanh nghiệp cũng phải tham gia tích cực vào quá trình đào tạo nhân lực từ khi còn là sinh viên học nghề cho đến các lao động hiện hữu để  nâng cao nhận thức và kỹ năng vận hành “xanh” cho nhân lực hiện hữu và trong tương lai, chủ động nhân lực đáp ứng xanh hóa….

Tóm lại, Nhà nước cần tạo ra một “sân chơi” công bằng, có kỷ luật và có hỗ trợ cho doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và doanh nghiệp phải thay đổi tư duy để trở thành những “người chơi” chủ động và có trách nhiệm trên sân chơi đó.

Nguyễn Thi, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Các tin khác

ACV ăn nên làm ra

Trong 9 tháng năm nay, Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam đạt doanh thu thuần gần 19.200 tỷ đồng, tăng gần 14% và lãi ròng hơn 8.900 tỷ đồng, tăng hơn 5% so với cùng kỳ.

Việt Nam kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm IUU

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định, Việt Nam đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủy sản bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, đồng thời triển khai nhiều biện pháp chống, ngăn chặn hoạt động khai thác hải sản bất hợp pháp, kiên quyết xử lý nghiêm và công khai, minh bạch các hành vi vi phạm.

FE CREDIT - 15 năm tự hào, tiếp sức triệu ước mơ

Trải qua 15 năm, FE CREDIT không chỉ là đơn vị tiên phong khai phá lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, mà còn là biểu tượng của sự đổi mới, bền bỉ và nỗ lực không ngừng để nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người dân Việt Nam.

Thông qua Nghị quyết Hội nghị Trung ương 14

Bộ Chính trị họp, tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của Trung ương, xin ý kiến Trung ương về các nội dung và thông qua Nghị quyết Hội nghị Trung ương 14.