Đó là ông Trần Đức Hậu (73 tuổi) và bà Phạm Thị Huê (72 tuổi). Họ chính là hai mảnh ghép của lịch sử, hai trái tim đã cùng nhau đi qua bao giông bão, lửa đạn chiến tranh, giờ lại cùng nhau chứng kiến Tổ quốc Việt Nam có được cơ đồ như ngày hôm nay.
"Tự hào và xúc động lắm!"

Ông Trần Đức Hậu và bà Phạm Thị Huê
ẢNH: ĐÌNH HUY
Ông Hậu cho rằng, đó là một lời thề thiêng liêng đã khắc sâu vào tâm khảm mỗi người lính, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động, mọi hy sinh nơi chiến trường ác liệt.
Trong khi đó, bà Huê nhập ngũ năm 1971. Một năm sau, bà được tham gia trực tiếp chiến dịch 12 ngày đêm bảo vệ bầu trời Hà Nội (chiến dịch Điện Biên Phủ trên không) - một trong những trận chiến khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau những ngày tháng quả cảm trên bầu trời thủ đô, bà được điều chuyển về trường đào tạo sĩ quan, rồi tiếp tục công tác tại quân đội cho đến ngày ra quân.
Ông Hậu nói rằng, trong 6 năm tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền Nam, ông đã may mắn khi được sống sót trở về. Càng hạnh phúc hơn khi 6 năm đó, bà Huê vẫn ở hậu phương kiên cường chờ đợi ông Hậu dù chẳng nhận được thông tin gì.
Ở chiến trường, ông Hậu đã chứng kiến và trải qua những trận đánh kinh hoàng, nơi mà cái chết cận kề và sự hy sinh là điều khó tránh khỏi. Ông nhớ lại, vào đêm 18, rạng sáng 19.4.1972, đơn vị của ông, thuộc Tiểu đoàn K80, Quân khu 5, đã thực hiện một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, đó là đánh cứ điểm Đăk Pét (tỉnh Kon Tum cũ) nhằm mở đường từ Tây Nguyên xuống Quân khu 5.
Thế nhưng, chỉ trong 1 đêm, đơn vị của ông cùng Tiểu đoàn 404 đặc công đã có gần 200 đồng đội hy sinh. Sau nhiều ngày đêm chiến đấu gian khổ nhưng không giải phóng được Đăk Pét, đơn vị của ông Hậu được lệnh rút quân để bảo toàn lực lượng.
"Thời điểm đó, tôi nhận báo tử trước, coi như một lễ truy điệu sống khi trực tiếp cầm lệnh rút lui của Quân khu 5 lên đường gửi cho đơn vị. Rất may tôi đã sống sót hoàn thành nhiệm vụ và quay về", ông Hậu nói và cho hay, sau khi hoàn thành nhiệm vụ đó, ông được kết nạp Đảng ngày 22.5.1972, ghi dấu một mốc son trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng.
"Tôi nghĩ mình không sống để trở về"
Cuối năm 1974, ông Hậu bị thương ở đùi sau những trận dội bom của địch. Tại chiến trường ác liệt, ông nghĩ mình sẽ không còn sống để trở về. Trong khoảnh khắc ấy, ông đã viết một lá thư gửi cho bà Huê.
Lá thư ấy được gửi qua một người đồng đội ở đơn vị ra Bắc với nội dung: "Em ạ! Chiến tranh, anh không biết sống nay chết mai, có lẽ tốt hơn nhất nếu ai thương yêu em thì em cứ lập gia đình đi, bởi vì lính các anh ở chiến trường đã xác định một xanh cỏ, hai đỏ ngực. Nếu anh tàn phế thì anh mới được trở về".
Đó là lời nói thật lòng, đầy hy sinh và cao thượng của một người lính, thà chấp nhận hy sinh hạnh phúc riêng để người mình yêu tìm được bến đỗ, còn hơn là để cô ấy phải chờ đợi trong vô vọng. Lá thư ấy là minh chứng cho sự khốc liệt của chiến tranh, nơi tình yêu cũng phải gồng mình trong sự chia lìa và nỗi lo mất mát.
Sau khi đất nước thống nhất, ông Hậu gặp lại bà Huê, hai người chính thức nên duyên vợ chồng sau 6 năm xa cách.
Tuy vậy, đối với ông Hậu, niềm hạnh phúc đó luôn đi kèm với nỗi trăn trở, với món nợ ân tình sâu nặng mà ông Hậu dành cho đồng đội đã hy sinh.
"Tôi nợ đồng đội rất nhiều", ông Hậu nói và cho hay, từ ngày ấy đến nay, dường như năm nào ông và một số đồng đội cũng vào lại chiến trường xưa để đi tìm đồng đội hy sinh. Đó là nghĩa tình sâu nặng của những người lính còn sống với những người đã ngã xuống.
Câu chuyện của vợ chồng ông Hậu là bản hùng ca về tình yêu đôi lứa hòa quyện với tình yêu Tổ quốc, về sự hy sinh cao cả và niềm hạnh phúc bình dị khi đất nước được độc lập, tự do. Họ đã chiến đấu, đã chờ đợi, đã hy vọng và đã lùi lại để thấy đất nước mình vươn mình mạnh mẽ, để thế hệ mai sau được sống trong hòa bình.