TS. Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia kinh tế, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Việc triển khai đồng loạt 234 dự án, công trình với tổng vốn đầu tư 3,4 triệu tỷ đồng vào ngày 19/12 được kỳ vọng là đòn bẩy chiến lược cho kinh tế Việt Nam.
TS. Nguyễn Quốc Việt, trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia đã có những chia sẻ với phóng viên TTXVN về cơ hội, thách thức và năng lực của doanh nghiệp Việt trong "chiến dịch" lịch sử này.
Phóng viên: Thưa ông, việc khởi công và khánh thành đồng loạt 234 dự án, công trình trọng điểm vào ngày 19/12 có tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Tôi kỳ vọng rất lớn vào việc Nhà nước đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công thông qua các công trình này. Đây là những dự án có tính chất quyết định, tạo nền móng đột phá về hạ tầng cho Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Lễ khởi công Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng Phân khu B - Khu công nghiệp Nam Thăng Bình. Dự án có quy mô hơn 346 ha, tổng vốn đầu tư hơn 3.370 tỷ đồng, do Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng Khu công nghiệp Nam Thăng Bình thuộc hệ sinh thái của Tập đoàn BIN Corporation làm chủ đầu tư. (Ảnh: Trần Tĩnh - TTXVN).
Đặc biệt, trong số này có nhiều dự án hạ tầng có tính lan tỏa cao. Các dự án này không chỉ thay đổi bộ mặt giao thông mà còn kết nối đồng bộ các vùng kinh tế, tạo ra những cực tăng trưởng mới.
Ví dụ, việc kết nối hạ tầng đường sắt từ Lào Cai xuống Hải Phòng sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Với quyết tâm này, tôi tin rằng đây là cơ sở để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số vào năm 2026 theo Nghị quyết của Quốc hội.
Phóng viên: Bên cạnh những kỳ vọng, việc đồng loạt triển khai khối lượng công việc khổng lồ như vậy sẽ đặt ra những thách thức gì và cần giải pháp nào để đảm bảo hiệu quả, thưa ông?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Thách thức đầu tiên là áp lực giải ngân. Với tổng vốn khoảng 3,4 triệu tỷ đồng, nếu giải ngân ngay 30% sau khởi công thì con số cũng rất cao.
Việc đổ một lượng vốn lớn vào nền kinh tế trong thời gian ngắn (cuối năm 2025, đầu năm 2026) sẽ gây áp lực lên vĩ mô. Chính phủ cần hài hòa giữa chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ để đảm bảo các cân đối lớn.
Thứ hai là vấn đề thiếu hụt nguyên vật liệu xây dựng như đất, cát, đá tại các địa phương. Đây là rủi ro cố hữu có thể làm chậm tiến độ.
Do đó, các Ban quản lý dự án, chủ đầu tư và chính quyền địa phương phải có giải pháp sáng tạo để hóa giải nút thắt này.
Ngoài ra, công tác giải phóng mặt bằng và đền bù cũng cần được đặc biệt quan tâm để đảm bảo các dự án vận hành đúng kế hoạch.
Phóng viên: Thưa ông, các siêu dự án như đường sắt tốc độ cao đòi hỏi năng lực kỹ thuật và nguồn lực tài chính rất lớn. Ông đánh giá thế nào về khả năng tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Qua nhiều năm tham gia các dự án ODA với vai trò thầu phụ và tự thực hiện các công trình lớn, doanh nghiệp Việt Nam đã tiến bộ vượt bậc.
Đến nay, chúng ta đã hoàn toàn tự chủ công nghệ xây dựng đường trên cao, cầu vượt biển, hầm xuyên đèo và cả sân bay.
Nhiều tập đoàn tư nhân đã chứng minh năng lực khi hoàn thành công trình sớm hơn tiến độ với chi phí thấp hơn dự toán ngân sách.
Ngày 19/12, Tập đoàn Hòa Phát đã tổ chức lễ khởi công Dự án Nhà máy sản xuất ray và thép đặc biệt Hòa Phát Dung Quất là một ví dụ điển hình.
Với bề dày kinh nghiệm đó, tôi tin rằng doanh nghiệp nội địa đủ sức đảm nhiệm từng phần, thậm chí là toàn bộ các cấu phần trong dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Từ lĩnh vực xây dựng, cơ khí chế tạo đến sản xuất thép, nếu được Chính phủ tin tưởng giao trọng trách, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!














