Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2025 ước tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 9,44% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011-2025.

Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2025, đơn vị %. (Nguồn: Cục Thống kê)
Tăng trưởng ngược dòng
Trao đổi với chúng tôi, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng trong bối cảnh thế giới nhiều biến động và thách thức, kinh tế Việt Nam đã “ngược dòng ngoạn mục”.
Chỉ trong 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã đạt gầm 700 tỷ USD bằng cả năm 2023. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài tiếp tục khởi sắc, cán cân thương mại dịch vụ có xu hướng thu hẹp thâm hụt, số doanh nghiệp gia nhập thị trường cao hơn số doanh nghiệp rút lui và các chỉ số sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đều duy trì tích cực,…
“Điều này cho thấy “cơ thể” kinh tế Việt Nam đang trỗi dậy mạnh mẽ, thể hiện sự đồng điệu giữa chu kỳ phát triển mới của nền kinh tế với các chính sách điều hành, tạo ra hiệu ứng cộng hưởng và nền tảng cho mức tăng trưởng cao“, ông Lạng nhìn nhận.
Vị chuyên gia này dự báo, tốc độ tăng trưởng GDP quý IV có thể đạt từ 9,1 – 9,3%. Các động lực tăng trưởng trong những tháng cuối năm sẽ tiếp tục đến từ đầu tư công khi trong những tháng cuối năm là thời điểm tăng tốc giải ngân. Nếu đạt được 100% kế hoạch, đầu tư công sẽ trở thành một trong những động lực then chốt giúp nền kinh tế hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm.
Bên cạnh đó, thời điểm cuối năm là giai đoạn bứt phá của tổng cầu, khi sức mua thường tăng 20–30% so với mức trung bình, đặc biệt trong mùa Giáng sinh, Tết Dương lịch và Tết Âm lịch. Cùng với chính sách tiền lương, thu nhập được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng nội địa chắc chắn sẽ bật tăng mạnh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng quý IV.
Về xuất nhập khẩu, ông Lạng cho rằng năm nay Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mốc lịch sử từ 950–1.000 tỷ USD, ghi danh vào nhóm quốc gia có quy mô thương mại toàn cầu hàng đầu. Trong đó, nhóm hàng chế tạo và công nghệ cao tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn, khẳng định vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị xuất khẩu.

PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. (Ảnh: Nguyễn Ngọc)
Bên cạnh các động lực truyền thống, Việt Nam đang nổi lên với những động lực tăng trưởng mới. Trong đó, chuyển đổi số, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số và thương mại điện tử, giúp nâng cao năng suất và mở rộng thị trường tiêu thụ. Còn chuyển đổi xanh không chỉ giúp Việt Nam thích ứng với tiêu chuẩn môi trường toàn cầu mà còn mở ra cơ hội tham gia và dẫn dắt chuỗi cung ứng xanh trong khu vực.
Đồng thởi, cải cách thể chế và mô hình quản trị, bao gồm tinh gọn bộ máy hành chính từ ba cấp xuống hai cấp tại địa phương, cùng các cơ chế đặc thù cho TP HCM, Đà Nẵng nhằm xây dựng trung tâm tài chính quốc tế. Song song với đó, cải cách môi trường kinh doanh được đẩy mạnh, hướng tới cắt giảm ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
“Đây không chỉ là bước ‘cởi trói’, mà còn tạo nền tảng cho một giai đoạn bùng nổ kinh tế mới trong 5 năm tới. Nếu duy trì đà cải cách này, tăng trưởng hai con số hoàn toàn khả thi và có thể kéo dài trong nhiều năm”, ông Lạng khẳng định.
Nâng sức chống chịu
Ở góc nhìn thận trọng, TS. Nguyễn Quốc Việt, Chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng lưu ý, kinh tế Việt Nam vẫn còn những điểm hạn chế.
Trong đó, sự phục hồi của cầu tiêu dùng trong nước chưa thực sự đạt kỳ vọng dù được trợ lực bởi nhiều sự kiện lớn trong năm 2025 và sự trở lại mạnh mẽ của khách quốc tế. Trong khi thu nhập và kỳ vọng thu nhập của người dân vẫn chưa ổn định, khiến sức mua chưa phục hồi mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu. Nhiều chi phí đầu vào, đặc biệt là tại các đô thị lớn, đang tăng nhanh, từ giá thực phẩm đến chi phí nhà ở, vật liệu xây dựng, sửa chữa là những yếu tố góp phần đáng kể vào chỉ số giá tiêu dùng. Một số dịch vụ công như giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường, quản lý đô thị dù có sự kiểm soát của Nhà nước nhưng theo lộ trình điều chỉnh cũng có xu hướng tăng, tác động đến chi tiêu và kỳ vọng tiêu dùng hộ gia đình.
“Dù thu nhập danh nghĩa tăng, song tăng trưởng năng suất lao động và giá trị gia tăng vẫn chưa tương xứng. Điều này cho thấy tăng trưởng hiện nay chưa thật sự chuyển hóa thành hiệu quả kinh tế bền vững”, ông Việt nêu rõ.
Về chính sách tín dụng, TS. Việt ghi nhận tăng trưởng tín dụng 9 tháng khoảng 13-14% đã góp phần hỗ trợ phục hồi sản xuất, tiêu dùng và một số lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên, rủi ro trong hệ thống tài chính vẫn hiện hữu, đặc biệt là nợ xấu từ trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản sau khi Thông tư 02 hết hiệu lực.
“Tỷ lệ nợ xấu tăng, trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm cho thấy nguy cơ tiềm ẩn lớn hơn,” ông phân tích. Nếu thu nhập của người dân giảm hoặc cầu tiêu dùng chững lại, nợ xấu cá nhân và tiêu dùng có thể tăng, kéo theo rủi ro lan tỏa trong hệ thống ngân hàng”, ông Việt quan ngại.
Đáng lưu ý, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp khó khăn. Trung bình mỗi tháng vẫn có khoảng 20.000 doanh nghiệp tạm dừng hoặc rút lui khỏi thị trường, trong đó tỷ trọng doanh nghiệp giải thể hoặc chờ giải thể tiếp tục tăng. Đây là điểm cần đặc biệt quan tâm trong bức tranh tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Vì vậy, để đạt và duy trì mục tiêu tăng trưởng trong thời gian tới, TS. Nguyễn Quốc Việt cho rằng cần đồng bộ giữa đầu tư công, tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đồng thời khai thác tốt hơn động lực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh.
Trong ngắn hạn, Chính phủ cần tập trung thúc đẩy giải ngân các dự án hạ tầng chiến lược, kết nối vùng và tạo cực tăng trưởng mới; về dài hạn, chú trọng cải thiện năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa để tạo nền tảng cho mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tới.
Ngoài ra, cần đánh giá kỹ lưỡng các rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống tài chính ngân hàng, đặc biệt là nợ xấu, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ là yêu cầu cấp thiết trong 3 tháng cuối năm.
Chính sách tài khóa cần tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng thông qua chi đầu tư công hiệu quả, trong khi chính sách tiền tệ duy trì ổn định lãi suất, kiểm soát lạm phát và cung ứng tín dụng hợp lý.
“Tăng trưởng quý IV và những năm tới cần hướng tới “mục tiêu kép” là tăng nhanh nhưng bền vững, đồng thời giữ ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu trước các cú sốc bên ngoài. Muốn vậy, phải chú trọng cải thiện chất lượng thể chế, môi trường đầu tư và năng lực quản trị công, tạo nền tảng dài hạn cho tăng trưởng“, ông Việt nhấn mạnh.
Ngày 4/11 tại TP HCM, Diễn đàn Đầu tư Việt Nam (VIF), do Trang TTĐT Tổng hợp VietnamBiz và Việt Nam Mới tổ chức, trở lại với loạt nội dung nóng: “Bức tranh vĩ mô – bất động sản – thị trường tài chính – chứng khoán: Con đường thịnh vượng của Việt Nam”.
Sự kiện quy tụ chuyên gia kinh tế, nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo ngân hàng, các quỹ và hàng trăm nhà đầu tư, cùng phân tích triển vọng vĩ mô, chính sách, bất động sản, ngân hàng, tài sản số và chu kỳ mới của chứng khoán.
Trải qua nhiều mùa tổ chức, VIF đã khẳng định vị thế diễn đàn đầu tư số 1 Việt Nam, nơi kết nối tri thức và vốn đầu tư.
Thông tin chi tiết: vietnaminvestmentforum.vn
Đăng ký mua vé hoặc tham gia khảo sát để có cơ hội nhận vé mời đặc biệt.