Xã hội

PGS TS. Phạm Thế Anh: Không thể dùng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng GDP liên tục trong thời gian dài

Để đạt được tăng trưởng cao trong thời gian tới, Việt Nam đang có xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công. Tuy nhiên, Việt Nam lại đang phải đối mặt với nhiều hạn chế về tài khóa và tiền tệ.

Đây là ý kiến của PGS TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh tạitại Toạ đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội của Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội diễn ra sáng 5/9.

Phân tích kỹ hơn về vấn đề này, chuyên gia Phạm Thế Anh chỉ ra 4 điều kiện tiên quyết đối với tăng trưởng cao, bền vững: Phải giữ được lạm phát ở mức thấp (không quá 4%); Tránh được giá bất động sản tăng phi mã; ổn định tỷ giá hối đoái và đảm bảo tính bền vững của nợ công.

Rủi ro nếu lạm dụng mở rộng chính sách tiền tệ 

 Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Nguyễn Minh Sơn chủ trì toạ đàm. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội).

Đối với Việt Nam, hiện chính sách tiền tệ và tài khoá vẫn bộc lộ một số hạn chế. Về tài khóa, mặc dù tỷ lệ thu ngân sách/GDP tương đối tốt so với khu vực, cơ cấu thu đang có sự dịch chuyển đáng lo ngại khi tỷ trọng thu từ thuế và phí giảm, trong khi các khoản thu kém bền vững như thu từ đất lại tăng lên. Ngoại trừ thu từ đất, khả năng tăng thu từ các nguồn thuế truyền thống rất hạn chế.

Trong khi đó, chi ngân sách chưa linh hoạt theo hướng nghịch chu kỳ kinh tế, và đặc biệt là tình trạng giải ngân đầu tư công chậm trễ, với lượng vốn lớn không được sử dụng. Cơ cấu chi cũng bất hợp lý khi chi thường xuyên quá lớn so với chi đầu tư phát triển. Đồng thời, nghĩa vụ trả nợ có xu hướng tiệm cận ngưỡng cho phép.

Điều này cho thấy dư địa tài khóa để dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn liên tục trong thời gian dài là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn.

Về chính sách tiền tệ, nhiệm vụ chính là bình ổn nền kinh tế, tức là chủ động nới lỏng khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, khó khăn và thắt chặt khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, khi có dấu hiệu mất ổn định kinh tế vĩ mô. 

Trong giai đoạn vừa qua, chính sách tiền tệ của Việt Nam được định hướng đa mục tiêu, vừa kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá nhưng còn để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.

Tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam vẫn rất cao so với tăng trưởng GDP, dẫn đến tỷ lệ M2/GDP và tín dụng/GDP cao nhất khu vực, tiềm ẩn rủi ro lạm phát, bong bóng giá tài sản, mất giá tiền tệ và hạn chế dư địa nới lỏng. Lãi suất thực thấp và lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới cũng gây khó khăn cho việc hạ lãi suất thị trường.

Thêm vào đó, chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý.

"Tất cả những điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng", chuyên gia cho biết.

Chính vì vậy, nếu không có các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững, nền kinh tế Việt Nam rất dễ đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô.

Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc lạm dụng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô.

Đánh thuế căn nhà thứ hai, áp thuế theotỷ lệ nội địa hóa 

PGS TS. Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân. (Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội).

Để có đủ nguồn lực tài chính cho các dự án hạ tầng lớn, yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, chuyên gia đề xuất ba giải pháp.

Thứ nhất, Việt Nam cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế, và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng.

Thứ hai, Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Thông qua việc thiết kế mức thuế suất, các loại thuế và ưu đãi thuế khác nhau, nhà nước có thể tác động đến hành vi của khu vực tư nhân: Khuyến khích hoặc hạn chế các quyết định về lao động, đầu tư và sản xuất.

Ở khía cạnh này, hệ thống thuế thu nhập của Việt Nam hiện nay nên được thiết kế lại theo hướng giảm nhẹ gánh nặng cho thu nhập từ tiền công/tiền lương, thu nhập từ tiền lãi/cổ tức chứng khoán, lợi nhuận doanh nghiệp, và tăng gánh nặng thuế đối với tiền lãi từ việc đầu cơ, găm giữ các tài sản không phục vụ sản xuất, ít đem lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế như bất động sản bỏ không/găm giữ, vàng hay tiền mã hóa.

Cụ thể, Việt Nam nên đánh thuế bất động sản bỏ hoặc và đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại.

Khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những người găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách cho thuê hoặc đưa vào sản xuất kinh doanh, hoặc buộc phải bán bớt. Điều này sẽ làm tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, giúp thị trường bất động sản trở nên lành mạnh và tránh được sự lãng phí tài nguyên.

Ngoài ra, việc sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện sớm để kích thích tiêu dùng nội địa, qua đó bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu do chính sách thuế quan từ Mỹ.

Để xuất khẩu cao, nhưng giá trị gia tăng thấp, không lớn trở thành một rủi ro cho nền kinh tế trước bối cảnh trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu.

Việc tăng tỷ lệ nội địa hóa giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia có thể bị áp dụng thuế quan hoặc các biện pháp phòng vệ thương mại từ các đối tác thương mại lớn. 

Chuyên gia cũng khuyến nghị, cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp Nhà nước không hiệu quả, đặc biệt trong những ngành không phải là trọng tâm chiến lược và không cần thiết có sự tham gia của nhà nước.

Nguồn thu từ việc thoái vốn những doanh nghiệp này sẽ được sử dụng để đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn, chẳng hạn như hạ tầng giao thông, năng lượng tái tạo, hoặc các ngành công nghiệp công nghệ cao.

Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công-tư (PPP). 

Thứ ba là về chính sách tiền tệ, Việt Nam cần định vị rõ ràng đây là chính sách với mục tiêu trọng tâm là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thay vì chỉ chạy theo mục tiêu tăng trưởng hai con số.

Tăng trưởng cung tiền nên đi sau và phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP, chứ không phải nới lỏng cung tiền một cách chủ động để kích thích tăng trưởng.

Việc nới lỏng hay dỡ bỏ trần tín dụng chỉ nên dành cho các ngân hàng đáp ứng đầy đủ các chuẩn an toàn vốn, quản trị rủi ro, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng được một hệ thống thông tin giám sát tự động, kịp thời và minh bạch, chuyên gia Phạm Thế Anh cho hay.

Các tin khác

Biển Đông sắp đón áp thấp nhiệt đới

Cơ quan khí tượng cho biết, trên vùng biển phía Đông khu vực Bắc Biển Đông hình thành một vùng áp thấp, có thể mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới trong 24 giờ tới.