Tiếp tục thảo luận tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV về ngân sách, đầu tư công chiều 30.10, đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Vĩnh Long) cho rằng, 2 nguồn lực quan trọng nhưng chưa được khai thác tương xứng là các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và nguồn lực vàng, tài sản tích lũy trong dân cư.
Phần lớn vàng của dân đang nằm trong két
"Cả hai đều là kho vốn lớn của nền kinh tế, một nằm trong khu vực công, một nằm trong dân. Nhưng đều đang thiếu cơ chế quản lý và huy động đồng bộ, minh bạch, hiệu quả", ông Bình nêu.

Đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Vĩnh Long)
ẢNH: GIA HÂN
Đề cập đến nguồn lực vàng trong dân, đại biểu Bình đề nghị cần chuyển nguồn tài sản này thành động lực sống của nền kinh tế. Ông dẫn ra số liệu theo Hội đồng Vàng thế giới, người dân Việt Nam hiện nắm giữ khoảng 400.000 đến 500.000 tấn vàng, tương đương 35 đến 40 tỉ USD, chiếm gần 8% GDP.
“Mỗi năm Việt Nam tiêu thụ trung bình 55 tấn vàng, nằm trong nhóm quốc gia tiêu thụ vàng cao nhất khu vực. Tuy nhiên, phần lớn lượng vàng này lại nằm vẫn nằm trong két. Một nguồn lực khổng lồ chưa được chuyển hóa thành vốn cho nền kinh tế”, ông Thạch Phước Bình nói.
Trong khi đó, năm 2024 và những tháng đầu năm 2025, có thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vượt hơn 14 triệu đồng/lượng, thậm chí đến 20 triệu đồng như Phó thủ tướng Lê Thành Long đã chỉ ra. Điều này phản ánh sự bất ổn của thị trường và tâm lý đầu cơ, găm dữ.
Dù Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp đấu thầu vàng miếng, song theo đại biểu đoàn Vĩnh Long, đây mới là giải pháp ngắn hạn. Nguyên nhân gốc rễ vẫn là thiếu một cơ chế thị trường minh bạch, hiện đại và an toàn cho người dân.
Từ đó, ông kiến nghị ổn định thị trường vàng, thu hẹp chênh lệch giá vàng trong và ngoài nước xuống dưới 5 triệu đồng 1 lượng trong vòng 6 đến 12 tháng. Thứ nhất là kiểm soát đầu cơ, tăng cung thông qua nhập khẩu vàng có kiểm soát.
Hai là, thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia - đây là bước đột phá thể chế để người dân có thể gửi vàng vật chất vào kho lưu ký chuẩn hóa, nhận chứng chỉ điện tử để giao dịch, cầm cố hoặc quy đổi. Nhà nước sẽ quản lý được dòng vàng thật mà vẫn đảm bảo quyền sở hữu của người dân.
Ba là, phát triển sản phẩm tài chính hóa vàng, như phát hành chứng chỉ vàng, lưu ký, quỹ đầu tư vàng, trái phiếu vàng được bảo chứng bằng vàng vật chất trong kho. Người dân có thể góp vàng hoặc đầu tư bằng Việt Nam đồng, hưởng lợi nhuận theo giá vàng, biến vốn tĩnh thành vốn động.
Bốn là, khuyến khích chuyển hóa vàng thành Việt Nam đồng, thông qua chính sách miễn phí lưu ký ưu đãi lãi suất hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng vàng.
Năm là, đảm bảo an toàn hệ thống, minh bạch thông tin, nghiêm cấm ngân hàng huy động hoặc cho vay bằng vàng. Công bố bản tin vàng quốc gia định kỳ để người dân được tiếp cận thông tin đầy đủ, tạo niềm tin với thị trường.
“Nếu chỉ 10 đến 15% lượng vàng trong dân được đưa vào hệ thống tài chính, tương đương 5 đến 7 tỉ USD, thì đó sẽ là nguồn vốn quý giá cho phát triển hạ tầng, chuyển đổi số và đổi mới công nghệ mà không cần tăng nợ công”, đại biểu Thạch Phước Bình nêu.
Cùng quan điểm trên, đại biểu Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho rằng nguồn lực trong dân vẫn còn rất lớn. Người dân chủ yếu tích lũy bằng ngoại tệ hoặc vàng, bất động sản.
Tuy nhiên, ông cho rằng, huy động nguồn lực trong dân chưa hiệu quả. Lý do, nếu thu hút tiền gửi ngoại tệ, thì ít nhất phải có mức lãi suất 6% cho người dân như với tiền vay nước ngoài, thậm chí phải cao hơn “bởi lọt sàng xuống nia". "Dân cho vay, nếu mình trả lãi cao hơn thì dân cũng được hưởng mà nhà nước cũng được hưởng, thay vì phải xin viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài”, ông Thân nói.

Đại biểu Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa
ẢNH: GIA HÂN
Không thể huy động nếu chưa tạo được niềm tin
Dẫn theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2024 cả nước có 24 quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách với tổng dư đạt 1,59 triệu tỉ đồng, dự kiến sẽ tăng lên 1,78 triệu tỉ đồng vào năm 2026, theo đại biểu Thạch Phước Bình, đây là con số rất lớn, tương đương 35% GDP quốc gia.
Song, bất cập là thể chế pháp lý thiếu thống nhất, mỗi quỹ hoạt động theo một nghị định riêng, dẫn đến khó giám sát và đánh giá hiệu quả. Nhiều quỹ chưa hiệu quả, thậm chí thua lỗ hoặc chưa công bố báo cáo tài chính, chưa chịu kiểm toán toàn diện.
Để khắc phục tình trạng này, ông Bình đề xuất cần ban hành luật quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoặc bổ sung chương riêng trong luật Ngân sách nhà nước. Trong đó, quy định rõ tiêu chí thành lập, phạm vi hoạt động, cơ chế kiểm soát, báo cáo và giải thể…
“Cần tăng cường trách nhiệm giải trình trước Quốc hội và cử tri, bởi mỗi đồng quỹ xét đến cùng vẫn là nguồn lực xã hội ủy thác cho nhà nước quản lý”, đại biểu Bình nêu, và cho rằng, “không thể huy động nguồn lực của dân nếu chưa quản lý minh bạch, hiệu quả nguồn lực của nhà nước. Cũng như không thể khai thác vốn trong dân nếu chưa tạo được niềm tin rằng đồng vốn ấy sẽ được sử dụng hiệu quả, an toàn và sinh lợi cho đất nước”.





 
            
          
 
            
          
 
            
          
 
            
          

 
            
          
 
            
          



 
            
          

 
            
          






 
 
 
 
 
 
 
 
 
