Vào mỗi dịp 30/4, ông Nghi và bà Hoa đều đến cây cầu Hiền Lương lịch sử. Tình cảm của cả hai vẫn mặn nồng như thuở ban đầu
Chuyện tình vượt thời gian ở đôi bờ vĩ tuyến
Men theo những con ngõ quanh co ven sông Bến Hải, chúng tôi tìm về căn nhà nhỏ của ông Hoàng Nghi và bà Hoàng Thị Hoa, năm nay đều đã ngoài 70 tuổi, ở thôn Hiền Lương (Vĩnh Thành, Vĩnh Linh, Quảng Trị).
Tiếp chúng tôi là đôi vợ chồng trông rất phúc hậu, với làn da rám màu sương gió và vô cùng hiếu khách.
Nhắc nhớ lại “cái duyên để đời” thuở son trẻ, ông Nghi chậm rãi kể, năm 1972, ông Nghi khi đó là Đội trưởng Đội Dân quân du kích, Đội trưởng Đội Sản xuất tại thôn Hiền Lương (ở bờ Bắc sông Bến Hải).
Còn bà Hoa là dân quân du kích thôn Tam Hữu, thuộc xã Triệu Trung (huyện Triệu Phong, phía bờ Nam).
Những năm tháng ấy, địch điên cuồng đánh phá ác liệt, đốt hết nhà cửa, phá hết ruộng vườn. Bà Hoa nhận lệnh cấp trên gấp rút đưa người dân ra sơ tán ở bờ Bắc sông Bến Hải, trong đó có cả gia đình của bà.
Thời chiến loạn lạc lại lạ đường sá, bà Hoa đi lạc vào làng Hiền Lương rồi vô tình gặp ông Nghi.
Biết chuyện cha của bà Hoa bị thương nặng do bom bi thả trúng, ông Nghi liền tức tốc đưa lên trạm xá cấp cứu. Chàng dân quân trẻ nhiệt thành giúp đỡ và tận tình chăm sóc thân phụ của bà Hoa như ruột thịt của chính mình. Rồi tình cảm giữa hai người cũng từ đó mà nhen nhóm, nảy nở.
Giờ đây, khi đã luống tuổi, ông Nghi và bà Hoa vẫn quấn quýt bên nhau như thuở còn son trẻ. Mỗi dịp 30/4, ông bà lại cùng nhau rảo bước trên cây cầu Hiền Lương huyền thoại để ôn lại những kỷ niệm về một thời hoa lửa cũng như đám cưới đặc biệt của chính mình. |
Được một thời gian, nhiệm vụ cách mạng cấp thiết nên bà Hoa phải trở về Triệu Trung tiếp tục công tác. Trước lúc rời đi, ông Nghi tự tay đan chiếc áo len tặng bà Hoa như một tín vật của tình yêu đôi lứa.
Ngày tháng đằng đẵng trôi qua nhưng vẫn không thấy bóng dáng o du kích lạc đường trở lại, nỗi nhớ cứ ngày một đong đầy, thôi thúc ông Nghi quyết tâm vượt dòng Bến Hải đi tìm bà Hoa.
Lần đi đầu tiên nhưng không gặp được người thương, ông Nghi buồn bã trở về. Không nản chí, vài tháng sau, ông tiếp tục vào lại Triệu Phong, đúng lúc gặp bà Hoa đi làm nhiệm vụ trên đường trở về.
“Khi chiếc thuyền sắp rời bến, tôi nhìn lên bờ thì thấy bóng dáng người mình yêu. Gặp nhau vỏn vẹn chỉ có 5 phút thôi, cả hai vừa mừng vừa tủi. Sau đó, chúng tôi tạm biệt nhau rồi nhanh chóng trở lại vị trí chiến đấu”, ông Nghi rưng rưng nhớ lại.
Ông Nghi tiếp lời: Vào một đêm năm 1972, bà Hoa nhận lệnh của Ban chỉ huy xã đội Triệu Trung điều động đến Đại Lộc để đóng chốt và bảo vệ vùng mới giải phóng. Từ đó, hai người mất liên lạc với nhau hơn nửa năm trời.
Phải đến khi có một đơn vị bộ đội vào tiếp quản ở Đại Lộc, ông Nghi mới biết được thông tin của người mình ngày nhớ đêm mong. Từ đó, nỗi nhớ thương mòn mỏi được cả hai gửi gắm vào những dòng thư biên vội, rồi nhờ các chiến sỹ về cơ sở chuyển tới tay nhau.
Cầu Hiền Lương “nối hai miền thương nhớ”
Ông Nghi và bà Hoa bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm về một thời hoa lửa cũng như đám cưới đặc biệt của mình
Đưa chúng tôi đi thăm lại cây cầu Hiền Lương lịch sử - từng là biểu tượng của nỗi đau chia cắt và khát vọng thống nhất của cả dân tộc, ông Nghi bồi hồi nhớ lại bài thơ tâm huyết mà ông viết tặng bà Hoa thuở còn đương chiến sự: “Sông Bến Hải bên bồi, bên lở/ Cầu Hiền Lương bên nhớ, bên thương/ Cách nhau đằng đẵng năm trường/ Biết khi mô nối lại đoạn đường vô - ra/ Bây giờ cầu lại bắc qua/ Ván thơm, gỗ mới cho ta gặp mình”.
Ông bảo, mặc dù những lần gặp gỡ thưa thớt, những phong thư gửi đi lúc nhận lúc thất lạc nhưng cả hai người đều không nguôi hy vọng sẽ có một ngày được đoàn tụ bên nhau khi đất nước hòa bình.
Rồi Hiệp định Paris được ký kết tháng 1/1973, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải bị bom đánh sập năm 1967, cũng đã được xây dựng lại vào đầu năm 1974.
Cây cầu làm bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang đi bộ rộng 1,2m. Người dân đôi bờ vỹ tuyến hân hoan nắm tay nhau vỡ òa hạnh phúc.
Trong niềm vui lớn ấy, ông Nghi và bà Hoa quyết định tổ chức đám cưới ra mắt hai họ, bạn bè và đồng đội.
Từ quê bà Hoa, chèo đò qua sông rồi vượt thêm gần 50km, đoàn rước dâu được bộ đội giúp đỡ bằng ô tô từ miền Nam ra mới đến bờ Nam chân cầu Hiền Lương.
Lúc này, phía nhà trai đã đứng đợi sẵn, bà con quanh bờ giới tuyến cũng đến chúc mừng đôi uyên ương trẻ.
Ông Nghi ân cần dắt tay bà Hoa đi bộ trên cây cầu lịch sử, rước dâu về làng, hai người chính thức về chung một nhà.
Bà Hoa xúc động kể lại, hồi đó hoàn cảnh khó khăn nên đám cưới của bà chỉ dọn có ít bánh kẹo cùng bát nước chè xanh.
Tiệc cưới đơn sơ nhưng vô cùng đầm ấm, hội trường được làm vội bằng tranh tre và lấy thùng đạn dựng lên để làm bàn. Phía kế bên là bức tường tre nứa có dán hình đôi bồ câu tung bay, cùng câu khẩu hiệu: “Hạnh phúc non sông hạnh phúc nhà/ Thắm tình non nước thắm tình ta”.
Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà. Hai ông bà chọn mảnh đất ngay mom sông Bến Hải để dựng nhà, làm chốn mưu sinh.
Bà Hoa bảo, chính nơi này ông và bà gặp được nhau rồi nên duyên chồng vợ nên cả hai muốn sống ở nơi buổi đầu gặp gỡ.
Họ có với nhau tất thảy 5 người con, trong đó 2 người con trai đầu được đặt tên là Hoàng Văn Hiền (làng Hiền Lương - quê cha) và Hoàng Văn Hữu (làng Tam Hữu - quê mẹ).
30 năm sau, vào năm 2004, cầu Hiền Lương lịch sử tiếp tục chứng kiến thêm một cuộc trùng phùng khi vợ chồng ông Nghi tổ chức đám cưới cho con trai và rước dâu từ bờ Nam qua cây cầu này.
Anh Hữu cưới vợ là chị Trần Thị Huệ ở thôn Xuân Hòa (Trung Hải, Gio Linh; phía bờ Nam). Cuộc đoàn viên hạnh phúc của hai thế hệ trong một gia đình cùng diễn ra trên cây cầu giới tuyến lịch sử cũng như là minh chứng cho sự gắn kết sắt son giữa đôi bờ Nam - Bắc.
Sau Hiệp định Genève 1954, sông Bến Hải trở thành giới tuyến quân sự tạm thời, để 2 năm sau tiến hành cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng cuộc tổng tuyển cử đã không diễn ra và cây cầu Hiền Lương đã trở thành nơi chia cắt đất nước suốt 21 năm trời ròng rã. Đã có hàng triệu người con ưu tú của Tổ quốc anh dũng ngã xuống. |