Thành công rực rỡ ở IBM, Kodak, rồi tự gây dựng doanh nghiệp in phun lớn thứ ba thế giới tại Canada, doanh thu hàng trăm triệu USD/ năm, Nguyễn Thanh Mỹ vẫn chọn quay về Trà Vinh – nơi ông sinh ra.
Ở tuổi ngoài 60, ông lại dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mới: số hóa nông nghiệp. Một hành trình mà chính ông thừa nhận: “Người dám bước vào chỉ có những kẻ… rất khờ khạo”.


Khi gặp ông trong chiếc sơ mi trắng giản dị, tôi rất tò mò muốn hiểu: Điều gì khiến một vị Bộ trưởng Indonesia từng phải thuê chuyên cơ chỉ để giữ lời hứa gặp ông tại Singapore?
Hôm ấy, con trai tôi hẹn Bộ trưởng Sakti Wahyu Trenggono (Bộ Nghề cá và Hải sản Indonesia) ăn một nồi cá đặc biệt ở Singapore – giống cá mà con trai tôi đang hợp tác nuôi bên đó. Ông vốn định bay từ Nha Trang và nối chuyến tại sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng chuyến bay bị trễ.
Để giữ đúng lời hứa, ông thuê hẳn một chuyên cơ riêng và thế là tôi bay cùng với ông. Đúng 6h tối, như đã hẹn, ông bước vào nhà hàng, nơi vợ ông đã bay sang trước từ Indonesia để chờ.
Khoảnh khắc ấy, tôi hiểu: đây là người có thể đồng hành. Vì với ông, một lời hứa quan trọng hơn mọi tính toán.

Ở Indonesia, tôi bắt đầu triển khai mô hình nuôi tôm TOMGOXY. Hơn 40 ao nuôi, mỗi ao một ngàn mét vuông – trị giá hàng triệu đô. Nhưng đó mới chỉ là bước khởi đầu. Nếu thành công, họ sẵn sàng mở rộng trên diện tích khổng lồ: 2.000 hecta.
Chính phủ Indonesia coi tôm là ngành chiến lược, tự bỏ tiền xây trang trại mênh mông. Thứ trưởng Bộ Nghề cá và Hải sản Indonesia, ông Haeru Rahayu nhiều lần sang Việt Nam, xuống tận công ty tôi, tìm hiểu công nghệ. Họ khát khao đổi mới đến mức cử cả đoàn cán bộ từ trung ương đến địa phương kiểm tra từng chi tiết, trước khi chọn bắt tay hợp tác.
Mô hình nuôi tôm này có gì hay mà được phía Indonesia trân trọng tới như vậy?
Ở Trà Vinh, có một doanh nghiệp đang nuôi tôm theo mô hình TOMGOXY. Trên 7,5 ha đất, mỗi năm hai vụ, chị thu tổng cộng cả trăm tấn tôm, lãi lớn sau khi trừ chi phí. Năng suất trung bình 40–55 tấn/ha/vụ, cao gấp 3–5 lần cách nuôi thâm canh cũ.
Khác biệt nằm ở công nghệ: ao hình nón gom chất thải và xả tự động. Máy móc tự động cấp oxy đều đặn, tạo dòng chảy liên tục. Tôm được cho ăn tự động theo kích thước. Cảm biến, AI và ứng dụng trên smartphone thay nông dân "trực ao". Nhờ vậy, mật độ thả nuôi tăng gần gấp 4, chi phí giảm khoảng một phần tư.
So với kiểu nuôi cũ, sự chênh lệch rõ rệt. Để có 1 tấn tôm, người ta từng phải tốn nửa hecta đất, hàng nghìn mét khối nước và thải ra lượng khí nhà kính gấp đôi nuôi bò. Một kiểu nuôi "đốt tiền" và hủy hoại môi trường. TOMGOXY thì khác.

Quan trọng, nó thể truy xuất nguồn gốc, đạt chuẩn an toàn thực phẩm quốc tế, giúp con tôm dễ bước vào những thị trường khó tính nhất: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản.
Với tôi, đó không chỉ là chuyện đưa nông sản Việt vượt biển lớn, mà quan trọng hơn: giúp nông dân sống khỏe trên chính mảnh đất của mình.

Khi bước vào nông nghiệp, ông chọn triết lý không bán giải pháp mà thiết kế để nông dân là người thụ hưởng. Mô hình TOMGOXY đã thể hiện rõ điều đó – nơi công nghệ thay thế sức lao động thủ công. Nhưng nông nghiệp đâu chỉ có ao tôm, phải không ông?
Tôi chế tạo phao quan trắc xâm nhập mặn lắp trên sông. Ở Trà Vinh, hai năm nay, gần như không còn ai kêu ca về hạn mặn. Nông dân chỉ cần mở ứng dụng trên điện thoại: nước ngọt bơm trữ, mặn thì dừng. Một thay đổi tưởng nhỏ, nhưng cứu được cả mùa màng.
Tôi còn xây dựng nền tảng dữ liệu số cho nông nghiệp. Nhìn qua ứng dụng viễn thám của tôi, bao nhiêu hecta lúa, bao nhiêu hộ nuôi heo, bao nhiêu con vịt… đều rõ ràng. Tôi còn đo lường được khí thải nhà kính và có hệ thống giám sát côn trùng, theo dõi sự di trú của rầy nâu. Nhờ vậy, nông dân từ chỗ phải phun thuốc 4–5 lần/vụ, nay nhiều nơi chỉ còn một, thậm chí không cần. Lúa sạch, dân cũng khỏe.

Dựa vào những hệ thống này, chúng tôi cảnh báo được nhiều vấn đề trong nông nghiệp trước khoảng 2-3 tháng, hỗ trợ đắc lực cho quản lý toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp, quy hoạch vùng nuôi trồng, truy xuất nguồn gốc… Nếu áp dụng sâu, rộng, đây sẽ là nền tảng số hóa ngành nông nghiệp và hướng tới phát triển bền vững.
Nói vậy thì những sáng kiến này không chỉ giúp nông dân, mà dường như đã chạm tới cả cấp lãnh đạo ngành…
Từ trước khi trở thành Bộ trưởng, anh Lê Minh Hoan đã từng kêu gọi tôi hỗ trợ chuyển đổi số nông nghiệp ở Đồng Tháp. Tôi đầu tư vài triệu USD để nghiên cứu và phát triển mà chưa nghĩ nhiều tới chuyện thu hồi vốn. Đơn giản, tôi muốn giúp.
Sau này, có lần, khi miền Bắc vừa trải qua một cơn bão lớn, điện thoại tôi reo vang giữa lúc 2h sáng. Đầu dây bên kia, anh Hoan nói rất nhanh: "Anh cho tôi biết chỗ nào ngập sâu nhất, để tôi tới luôn giúp người dân?"
Mặc dù hệ thống của tôi tập trung ở ĐBSCL, nhưng dữ liệu ngoài Bắc Bộ, chúng tôi vẫn nắm được. Ngay trong đêm, tôi cùng đội kỹ sư tức tốc chạy dữ liệu, gửi thông tin nóng cho anh. Hai đầu tiền tuyến và hậu phương: không ai chợp mắt suốt đêm dài. Ở đâu ngập sâu nhất, ở đó anh Hoan có mặt cùng bà con.
Hình ảnh một Bộ trưởng dấn thân giữa bão gió, quyết đi tới tận cùng những nơi khó nhất, khiến tôi thật cảm phục. Nó cũng nhắc tôi rằng: đã chọn con đường nông nghiệp, thì phải hết sức tận tâm, tận lực.

Ông vừa nói mình làm vì muốn giúp, không quan trọng lợi nhuận?
Mọi người không biết thôi, chứ tôi vốn đã có những sản phẩm xuất đi hơn 80 quốc gia. Thay vì đem thật nhiều tiền đi tài trợ đâu đó, tôi muốn bỏ tiền túi để làm điều thiết thực và tử tế. Mỗi người có một cách để giúp đất nước. Đây là cách của tôi.

Ông sẵn sàng bỏ tiền túi và tâm huyết để làm điều tử tế cho nông nghiệp, nhưng có lúc nào ông cảm thấy chính mình "gặp khó"?
Đúng là có lúc như vậy! Khó nhất không phải nông dân hay doanh nghiệp, mà là cơ chế.
Ứng dụng của chúng tôi giống như Microsoft – phải trả phí hằng năm, vì cần cả trăm kỹ sư cập nhật dữ liệu mỗi ngày. Thế nên quan điểm trước đây ưu tiên "mua đứt" để làm chủ, mà không "thuê", đã không còn phù hợp. Nếu họ mua rồi để đấy, không có đội ngũ vận hành phía sau thì cả hệ thống sẽ chết ngay từ lúc bắt đầu.
Chuyển đổi số nông nghiệp rất khó. Nó đòi hỏi hạ tầng khổng lồ: dữ liệu số, hệ thống quan trắc nước, giám sát côn trùng, đo khí nhà kính… cho cả vùng rộng lớn. Những việc như thế, chỉ Nhà nước mới kham nổi. Nhưng muốn làm thì phải giải quyết được các điểm nghẽn cơ chế.
Đã có lúc, tôi thấy mình "gõ cửa" mãi mà chẳng ai mở. Gần đây, tôi mới thấy lóe lên tia sáng từ Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68. Từ nghị quyết đến thực tế còn nhiều việc phải làm, nhưng đã có niềm tin để chờ.
Trong lúc chờ đợi các điểm nghẽn được khơi thông, tôi mong nhiều bàn tay cùng góp sức. Tôi lắp một trạm giám sát côn trùng, người khác lắp thêm cái kế tiếp; tôi dựng một phao quan trắc nước, họ dựng cái sau...

Ví dụ, Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế - IFAD đã tài trợ rất nhiều trạm giám sát côn trùng. Hay công ty CP Phân bón Bình Điền tài trợ đầu tư rất nhiều hệ thống quan trắc xâm nhập mặn. Chúng tôi đã lắp hàng trăm phao quan trắc nước, giúp nông dân bơm trữ không biết bao nhiêu nước ngọt để cứu lúa và hoa màu… Khi nhiều bàn tay cùng góp, bức tranh mới sáng. Những việc như thế vẫn còn ít. Cần nhân rộng hơn nữa.
Nhắc đến sự nhân rộng, tôi muốn quay lại với mô hình TOMGOXY mà ông đã nói. Mặc dù đem đến hiệu quả vượt trội, nhưng khi nhìn ở quy mô lớn, mô hình ấy vẫn chưa lan tỏa được như kỳ vọng. Theo ông, vì sao lại như vậy?
Ở ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp nuôi tôm hàng đầu đã quen với mô hình cũ. Họ thích sự an toàn, ngại đổi mới. Nông dân miền Tây thông minh, sáng tạo, nhưng thiếu nền tảng khoa học – công nghệ để tạo cú đột phá.
Ngành tôm ở nước ta - nói thẳng ra - chưa thực sự vững từ gốc. Cả nước có hàng trăm nghìn hecta nuôi tôm, nhưng sản lượng vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra. Việt Nam phải nhập rất nhiều tôm nguyên liệu từ Ấn Độ, Ecuador về chế biến rồi xuất khẩu.
Báo cáo của hiệp hội thì năm nào sản lượng nuôi tôm cũng "tăng trưởng". Nhưng nông dân nuôi tôm thì không phải ai cũng hái quả ngọt: có người trắng tay sau một hai vụ, nợ nần chồng chất, gia đình tan vỡ...
Tôi đã đi qua những vùng đất mà 20 năm trước, hai bên đường ken đặc ao tôm. Những bữa nhậu tưng bừng. Vì nhà nào có ao tôm, nhà đó đều giàu có. Giờ thì có chỗ đìu hiu, ao cạn khô trơ đáy. Đất cắm nợ ngân hàng không lấy lại được.
Là người sở hữu công nghệ mới, có thể giúp nông dân, chứng kiến cảnh đó, ông cảm nhận thế nào?
Thú thật, tôi đi nói đến khàn cả giọng, nhưng người ta không nghe. Thành ra, công nghệ mới của tôi phải mang ra nước ngoài, hoặc đi tìm những "tấm chiếu mới" trong nước, chưa nuôi tôm bao giờ (cười).

Khi biết chắc nông dân sẽ thua ván cược đó, nhưng lại không thể giúp thì chính tôi cũng đau lắm chứ! Nhưng riết rồi quen. Giờ tôi đủ no để khỏi khóc. Tôi làm vì quê hương, đất nước, vì hơn 800 nhân viên của mình.
Có lẽ phải chờ đến khi có những trang trại lớn, những khoản đầu tư đủ mạnh chứng minh hiệu quả trên diện rộng, thì mới mong có sự đổi thay. Trước mắt, chỉ cần con giống sạch bệnh để nông dân nuôi có lời, thì họ mới có vốn và niềm tin để nghĩ đến chuyện đổi mới.
Chứ hiện nay, hơn 70% con giống tôm thẻ chân trắng ở ĐBSCL nhiễm bệnh EHP. Căn bệnh quái ác khó phát hiện, nuôi cả tháng mới lộ ra tôm không lớn. Khi ấy, vốn liếng đã chôn hết dưới đáy ao.
Tôm sú hiện vẫn còn tốt, nhưng nói chung cũng không được khỏe mạnh. Tôi biết thế nhưng nhiều khi… (thở dài) mình đâu đủ lực để giúp hết!

Nghe ông nói, tôi hiểu dù biết trước con đường này đầy rẫy gian nan, ông vẫn chọn dấn thân. Nhưng điều ấy lại làm tôi thấy cuộc đời ông có một nghịch lý: ngày xưa, ông liều mình rời quê hương. Hôm nay, khi có trong tay sự nghiệp và tri thức, ông lại chọn quay về Trà Vinh, lao vào con đường nhiều người bảo chỉ có 'kẻ khùng' mới làm. Vì sao ông lại có sự lựa chọn đó?
Những năm sau chiến tranh, đất nước cấm vận, đời sống vô cùng khó khăn. Tốt nghiệp ĐH Bách khoa, tôi không tìm được việc làm. Một chiều chạng vạng, cậu tôi chỉ nói một câu: "Bay chở mấy đứa nhỏ xuống ghe vượt biên".
Ghe đánh cá dài chục thước, ngang chừng hai thước rưỡi. 42 con người chen chúc như cá mòi. Biển đêm tối đen, gió quất rát mặt. Ra đến Côn Sơn, máy hỏng, ghe thả trôi. Suốt 12 ngày đêm, tài sản duy nhất của đoàn người chỉ là vài giọt nước mưa hứng từ trời. Có lúc, tôi tưởng tất cả sẽ tan vào đại dương.
Rồi một giàn khoan dầu của Mỹ ngoài khơi Malaysia phát hiện và cứu chúng tôi. Khi bàn chân chạm đất liền, tôi tự hứa: sẽ không phí thêm một giây nào của đời mình. Vì từ đấy, tôi tin mình đã bước vào "kiếp sống thứ hai".
Và cũng vì lời hứa ấy, sau này dù đã thành đạt ở IBM hay Kodak, tôi vẫn chọn quay lại Việt Nam. Ở Canada, cuộc sống văn minh, đủ đầy, con người rất tốt. Nhưng chỉ nơi quê nhà mới có tình làng nghĩa xóm, ký ức tuổi thơ và một sự ấm áp lạ lùng mà không nơi nào có được.
Lúc mới quen vợ, khi còn làm phụ bếp, cô ấy hỏi, ước mơ của anh là gì. Tôi nói ngay khi tay còn đang thái thịt bò trong bếp tại nhà hàng: Một ngày nào đó, anh sẽ về quê, xây nhà xưởng, giúp bà con có việc làm. Tất cả nhân viên đứng đó đều phì cười. Ai cũng nghĩ tôi "nổ". Sự thật, con người là thế – trái tim ai cũng hướng về đất mẹ.
Tôi đã chọn trở về, từ khi giấc mơ ấy còn xa xôi.

Từ một phụ bếp nơi đất khách xa lạ, ông đã nuôi dưỡng ước mơ trở về như thế nào?
Để cưới vợ, gia đình bên ngoại đặt điều kiện: phải có bằng đại học và công việc ổn định. Thế là ban ngày tôi đi học, tối làm nhà hàng, khuya viết báo cáo, mỗi ngày chỉ ngủ 2–3 tiếng. Gần bảy năm sau, tôi lấy bằng tiến sĩ Hóa học, lọt top xuất sắc của Đại học Concordia, rồi làm cho IBM, Kodak.
Năm 1997, tôi ghé về Việt Nam khi đi công tác ở Nhật. Từ trên máy bay, nhìn thấy phi trường Tân Sơn Nhất tối om, khác hẳn khung cảnh hoa lệ ở sân bay Hàn Quốc trước đó, nước mắt tôi tự nhiên trào ra.
Trở lại Canada, tôi nghỉ việc. Tôi muốn khởi nghiệp, có tiền rồi mới quay về thực hiện lời hứa cũ. Khi công ty đạt doanh thu hàng chục triệu USD/năm, đúng sinh nhật năm 2003, vợ tôi nhắc lại chuyện xưa. Tôi hiểu, đã đến lúc trở về.
Nhưng thời điểm đó, công ty ông ở Canada cũng cần mở rộng. Quyết định quay về chỉ vì ước mơ hay có cả lợi nhuận?
Ở Canada, cơ hội nhiều lắm, nhưng chi phí gấp ba lần Việt Nam. Tôi tự hỏi: nếu phải trả gấp ba, sao không trở về để 'cái gấp ba ấy' nuôi sống thêm nhiều người? Với tôi, thành công không chỉ là tiền, mà còn là tri thức, việc làm, cơ hội tạo ra cho người khác.

20 năm trước, nhiều người bảo tôi khùng khi mang tiền về Trà Vinh. Nhưng hôm nay, tôi hạnh phúc hơn bất cứ ai. Tôi thường nói mình là người giàu có nhất thế giới. Giàu không chỉ vì có tiền, mà vì có tình cảm, và biết đủ.
Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ chọn như cũ. Chỉ khác, tôi sẽ bớt háo thắng – và khôn ngoan hơn."
Vì sao ông nói vậy?
Khi tôi mới trở về xây nhà xưởng, vật tư thất thoát đến hơn 30%. Tôi nhẩm sơ cũng mất 1–1,5 triệu USD. Nhưng quan trọng là mình đã làm được điều mong muốn. Con đường gập ghềnh một chút mới thú vị.
Thủ tục thì rườm rà. Nhưng tôi không nản. Đất nước đang phát triển, khó khăn là tất yếu. Tôi luôn nghĩ: cùng lắm thì quay lại Canada. Nhờ vậy, tôi dám nói thẳng, nói thật, và không sợ thất bại.
Trở về để giúp quê hương, nhưng có vẻ như giấc mơ của ông giờ đã không dừng ở biên giới Việt Nam?
Tôi nghĩ, điều quan trọng là tâm thế sẵn sàng giúp đỡ những nơi cần. Ví dụ, chiếc máy giám sát côn trùng của tôi – tưởng đơn giản nhưng thế giới chưa làm được – đã có mặt ở Nhật, Thái Lan, Brunei.... Người Nhật mua 50 trạm, lắp khắp 47 tỉnh, giao trung tâm công nghệ địa phương vận hành, rất bài bản.
Họ làm vậy vì chỉ trong 10 năm qua, hơn 40% loài côn trùng biến mất, ong và bướm giảm gần một nửa. Nhân loại có nguy cơ mất đi một phần ba nguồn lương thực. Đó không còn là chuyện của riêng ai, mà là vấn đề toàn cầu.
Trong nước còn vướng mắc. Nhưng chính Tổng bí thư Tô Lâm đã nói: "Khoa học mà đấu thầu giá rẻ thì chỉ đem về công nghệ lạc hậu". Đất nước đang trải qua cuộc cách mạng mới chưa từng có. Tôi đặt niềm tin vào tương lai. Và khi trái tim có tình yêu đủ lớn, thì từ một ao tôm ở Trà Vinh cũng có thể mở con đường ra thế giới.
Và tôi hạnh phúc vì đã đi một vòng lớn: ra đi để trở về. Trở về để cùng quê hương tiến xa hơn.

